Phân tích, cảm nhận đoạn thơ từ câu 31

Phân tích, cảm nhận đoạn thơ từ câu 31
Bạn đang xem: Phân tích, cảm nhận đoạn thơ từ câu 31 tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích, cảm nhận đoạn thơ từ câu 31 – 42 bài thơ Việt Bắc:

Mở bài: 

Giới thiệu tác giả tác phẩm và vị trí đoạn trích

Thân bài:

Nỗi nhớ về những ngày khó khăn, gian khổ ở Việt Bắc

Nguồn động lực giúp quân và dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ của cuộc chiến, để mai sau khi đi xa, người qua đường không khỏi rùng mình khi nhớ lại ký ức ấy.

– Nghệ thuật đối lập, tương phản: Cuộc sống gian khổ vẫn vang tiếng núi đèo 

Làm nổi bật tinh thần lạc quan, yêu đời của người cán bộ, chiến sĩ cách mạng bất chấp gian khổ, khó khăn trong cuộc sống.

 Cuộc sống yên bình, tĩnh lặng với những âm hưởng bình dị của Việt Bắc

“Nhớ tiếng mõm rừng chiều

Cối và chày được phân bổ đều vào ban đêm.”-

“Tiếng mõm rừng chiều”: Đây là âm thanh đặc biệt của núi rừng Việt Bắc:

+ Gợi nét độc đáo trong tập tục chăn thả gia súc của người dân tộc miền núi, chiều chiều nghe tiếng bò về chuồng, tiếng ục ục quen thuộc, bình dị của cuộc sống đời thường.

+ Theo Tố Hữu nó như một bản nhạc rừng làm say đắm lòng người. Tâm hồn tác giả luôn đồng điệu, lắng nghe và tiếp nhận mọi âm thanh của cuộc sống và cả những âm thanh của trái tim mình.

– Tiếng chày giã gạo (“tiếng chày trong đêm”)

+ Đây là âm hưởng đặc trưng của Việt Bắc. Cối xay lúa được thiết kế để tận dụng sức nước từ các dòng suối chảy đều, hoạt động mạnh, giã

+ Phản ánh cuộc sống yên bình, bình dị nơi núi rừng và gợi nhớ về một thời đã qua. Đó là những âm thanh huyền bí, linh thiêng, huyền ảo nơi núi rừng VB đã thấm sâu vào lòng nhà thơ, để bây giờ khi tách ra đã thăng hoa thành những câu thơ ngân nga lay động lòng người.

Vẻ đẹp đặc sắc của cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của người dân Việt Bắc qua nỗi nhớ đã làm xúc động trái tim người cán bộ cách mạng.

Kết bài: 

Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

2. Phân tích đoạn thơ từ câu 31 – 42 bài thơ Việt Bắc:

Dù đã đi xa nhưng những người cán bộ kháng chiến không thể nào quên khoảng thời gian được chung sống với đồng bào Việt Bắc. Có lẽ đẹp nhất, đáng nhớ nhất trong những năm tháng ở chiến khu là tình yêu nồng nàn:

Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đi ta đó đắng cay ngọt bùi

Lời người cán bộ kháng chiến nói với đồng bào trong chiến khu chan chứa tình nghĩa gọi “ta – mình”. Câu văn trên là lời khẳng định cho sự chia xa, là lời khẳng định cho nỗi nhớ da diết. Cây cầu bên dưới ùa về bao kỉ niệm, bao gắn bó giữa “ta – mình” suốt 15 năm ấy. Nỗi nhớ không có hình thù, nhưng có vị đắng và ngọt. Cay đắng là những vất vả của đời sống vật chất. Và ngọt ngào là tình cảm giữa đồng bào chiến khu với cán bộ kháng chiến. Biết bao cảm xúc, biết bao tình cảm ngọt ngào bỗng chất chứa trong hai từ “đắng cay” và dấu chấm lửng cuối bài thơ.

Nơi sâu xa nhất trong tình cảm gắn bó giữa nhân dân chiến khu với cán bộ cách mạng là tình cảm:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơn sẻ nữa, chăn sui đắp cùng

Thương nhau, đồng bào chia nhau từng củ sắn, niêu khoai, từng miếng cơm, manh áo, đùm lá rách. Vật chất thì tằn tiện, giản dị nhưng tình người thì sâu nặng, thiêng liêng. Tình đồng bào, đồng chí ấm áp, thân thiết như tình thân trong một gia đình. Giữa cán bộ và đồng bào dường như không còn khoảng cách. Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa hiện thực, vừa khái quát. Tất cả đã khẳng định tình cảm gắn bó giữa đồng bào Việt Bắc với các chiến sĩ cách mạng.

Khắc ghi tình cảm kháng chiến và cách mạng, người cán bộ về quê sẽ mãi nhớ hình ảnh người mẹ Việt Bắc:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Hai dòng thơ như một thước phim quay chậm cận cảnh người mẹ Việt Nam trên cánh đồng. Trời nắng gắt, đường ra đồng xa, đứa con còn quá nhỏ, non nớt, mẹ vẫn cần mẫn trên nương, lên rẫy cặm cụi bẻ từng bắp ngô. Trước ngực con thơ, sau lưng sọt ngô trĩu nặng, tấm lưng mẹ rám nắng vì gian khổ, vất vả nhưng tất cả vì gia đình, vì cách mạng, vì kháng chiến, người mẹ Việt Bắc vẫn vượt qua mọi khó khăn. Hình ảnh mặt trời cháy nắng thực ra là nhan đề của bài thơ. Hình ảnh bài thơ khắc sâu trong tâm trí người đọc sự cần cù, chịu thương, chịu khó, cần cù, đức hi sinh cao cả của người mẹ Việt Bắc. Thật cảm động khi Tố Hữu cất lên tiếng gọi mẹ tha thiết, có lẽ với Tố Hữu, Việt Bắc đã trở thành gia đình mà cả cuộc đời người mẹ mang ơn.

Vẫn mang dòng hoài niệm, nhưng kỉ niệm của lớp chữ, đám tiệc ở chiến khu mang màu sắc tươi mới, náo nức:

Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya thắp sáng những giờ liên hoan

Các cán bộ cách mạng lên vùng cao không chỉ nuôi quân kháng chiến mà còn gieo chữ vào làng, đem ánh sáng văn hóa về làng. Các lớp dạy chữ, dạy chữ được mở khắp các làng xã. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ tràn đầy hạnh phúc khi chinh phục được chân trời trí tuệ mà còn tràn đầy niềm vui trong các hoạt động tập thể. Ý thơ của Tố Hữu trong buổi sáng hội làm ta liên tưởng đến cảnh trại đốt đuốc mở hội trong “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Cuộc sống nơi chiến khu tuy gian khổ nhưng luôn ấm áp, tình cảm và trong lòng mỗi người luôn ánh lên niềm lạc quan, tin tưởng:

Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Tinh thần trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” đã thực sự thấm sâu vào nhận thức của nhân dân. Và điều đó đã được Tố Hữu thể hiện trong bài thơ.

Khép lại những thước phim về cuộc sống bình dị của chiến khu, thân thương là những âm thanh thân thương, quen thuộc:

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm, nện cối đều đều suối xa

Đoạn thơ hội tụ những vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhất trong các bài thơ Việt Bắc. Dấu chấm lửng cuối bài thơ tạo nên những khoảng lặng thú vị. Việc sử dụng thể thơ lục bát ngọt ngào, nhịp nhàng, giàu chất dân gian đã tạo nên sức hấp dẫn lạ thường cho bài thơ.

3. Cảm nhận đoạn thơ từ câu 31 đến câu 42 bài thơ Việt Bắc:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Phải chăng mỗi vùng đất ta đặt chân đến đều là những kỷ niệm đáng nhớ bởi thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây. Ngay cả nhà thơ Tố Hữu khi đến với núi rừng Việt Bắc cũng rất ấn tượng với thiên nhiên và con người nơi đây nên đã gửi vào Tây Bắc một tình cảm sâu nặng, nặng tình. Nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc của người cán bộ trở về châu thổ được nhà thơ Tố Hữu phác họa một cách tinh tế qua khổ thơ thứ 5 của bài thơ “Việt Bắc”:

Tố Hữu là cây bút tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng, ông có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học và cách mạng Việt Nam. Thơ ông luôn gắn bó mật thiết với từng giai đoạn của cách mạng. Bài thơ Việt Bắc sáng tác tháng 7 năm 1954 được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm của người về quê nhớ cách mạng.

Nỗi nhớ núi rừng Việt Bắc của người về được thể hiện qua 6 dòng đầu của khổ thơ:

Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đi ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơn sẻ nữa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhà thơ sử dụng những cách nói quen thuộc trong ca dao để bày tỏ nỗi nhớ Việt Bắc. Cách diễn đạt nỗi nhớ so với nỗi nhớ người yêu thật độc đáo, xuất phát từ tình cảm cách mạng để nói đến ân tình cách mạng. Nhà thơ đã “phải lòng đất nước” nên tình yêu đất nước được ví như tình yêu cháy bỏng, nhiệt huyết của tuổi trẻ. Nỗi nhớ ấy còn bao trùm cả cảnh vật, xuyên thời gian, không gian qua hình ảnh bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Đây là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca của người chiến sĩ cách mạng trong những tháng ngày cùng những người lao động nhỏ bé mà giản dị, giàu tình thương mến thương trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Ở trong bài thơ “Việt Bắc” qua nỗi hồi ức của người chiến sĩ  người đọc có thể chứng kiến hình ảnh chân thực đến thương xót với những số phận con người lao động miền cao Việt Nam ngày ngày phải lên rẫy dưới cái nắng chói chang kéo trên vai à hình ảnh của người con và là niềm tự hào của đất nước sau này. Ôi sao mà khắc nghiệt đến vậy những chất chứa đầy tình yêu bình dị đến cháy bỏng.

Qua dòng thơ của bài thơ “Việt Bắc” cho ta thấy được nỗi nhớ Việt Bắc của lòng người. Đó là tình cảm nồng nàn, chân thành với cách mạng của những trái tim yêu nước. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi ngôn từ nhẹ nhàng, sâu lắng của nhà thơ Tố Hữu pha chút hóm hỉnh của nhà thơ Nguyễn Tuân.

THAM KHẢO THÊM: