Phân tích, cảm nhận khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc hay nhất

Phân tích, cảm nhận khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc hay nhất
Bạn đang xem: Phân tích, cảm nhận khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc hay nhất tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1.Dàn ý phân tích, cảm nhận khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

Mở bài:

Giới thiệu tác giả, bài thơ Việt Bắc: Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc (101954; in trong tập thơ cùng tên), được coi là tác phẩm tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Thân bài:

Về nội dung:

  • Nỗi nhớ Cách mạng đối với đồng bào, với thiên nhiên Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu: da diết, tha thiết…
  • Nhớ thiên nhiên thanh bình, tĩnh lặng, giản dị mà thơ mộng.
  • Nhớ về cuộc sống của đồng bào và chiến sĩ đầy gian khổ nhưng tình cảm sâu nặng: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (đắng, cay, ngọt, bùi), điệp ngữ (bẻ ngược củ sắn, chẻ đôi), thể hiện tình cảm nhớ nhung của người ra đi đối với người ở lại.

 Về nghệ thuật

  • Thể thơ: thể lục bát truyền thống, có vần đặc trưng khiến cho lời ca ngọt ngào, mượt mà..
  • Phép tu từ: Điệp ngữ “nhớ” với phép so sánh đặc sắc đã bộc lộ nỗi nhớ da diết. Việc liệt kê hàng loạt hình ảnh, địa danh của Việt Bắc khắc họa sâu sắc nỗi nhớ quê hương thứ hai của người lính.
  • Hình ảnh, ngôn ngữ: giản dị, tự nhiên, gần gũi…

Kết bài:

  • Đoạn thơ trên là một bản tình ca về lòng trung thành, là tiếng nói của trái tim nhà thơ hay còn gọi là con người Việt Nam trong kháng chiến.
  • Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của một người cán bộ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc không chỉ với tư cách là một công dân xã hội mà còn sâu sắc như tình yêu đôi lứa.

2. Phân tích khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất:

Tố Hữu, một cái tên không xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Thật vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng Tố Hữu đã, đang và sẽ mãi là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hài hoà giữa trữ tình và chính trị ẩn chứa trong mỗi tác phẩm, tiêu biểu nhất là bài thơ Việt Bắc. Đây là một bài thơ ghi lại những cảm xúc và hoài niệm sâu sắc của một người cán bộ về Tây Bắc với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đoạn thơ sau thể hiện nỗi nhớ của tác giả về cảnh và người trong thời kỳ kháng chiến:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi.”

Việt Bắc là căn cứ địa, cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Thiên nhiên và con người Việt Bắc đã nuôi dưỡng, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm qua. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, khi các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ rời Tây Bắc trở về Hà Nội. Đây là bài thơ dài ghi lại nỗi nhớ da diết của người cán bộ và nhân dân, đồng thời cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ với Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm trong khổ thơ thứ ba của phần I, bài thơ nói về những kỉ niệm, nỗi nhớ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Một nỗi nhớ da diết, day dứt được tác giả tưởng tượng một cách lạ lùng:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Một chữ “gì” chất chứa bao điều, phải chăng là nỗi nhớ thiên nhiên, con người và thời chiến đầy ắp kỉ niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, những hình ảnh so sánh có ý nghĩa, nỗi nhớ da diết, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung cảnh hiện ra hoàn toàn khẳng định đối tượng được nhớ Việt Bắc: “Trăng lên đỉnh núi, nắng lấp núi” tiếp theo là những hình ảnh gợi tả không gian thơ mộng của núi rừng Việt Bắc. 

Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được liệt kê đến từng chi tiết. Tác giả nhớ rất rõ những kỉ niệm và cảnh vật Việt Bắc. “Người thương”, chỉ hai từ thôi nhưng chứa đựng biết bao yêu thương. Đây là những người dân Việt Bắc đã cưu mang cán bộ trong suốt thời gian dài gian khổ. “Bếp lửa” hình ảnh gia đình ấm cúng thường thấy, có lẽ tác giả đã coi nơi đây như gia đình thứ hai của mình. Các vần “sương”, “người thương” làm cho giọng điệu của câu văn trở nên nhẹ nhàng, thể hiện nỗi nhớ da diết không muốn rời xa. Nỗi nhớ ấy dường như cũng sâu đậm hơn với những địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả đã trải qua:

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Dù chỉ là một địa danh nhỏ bé giữa núi rừng Việt Bắc bao la nhưng dường như trong kí ức của tác giả nó cũng trở nên quan trọng và không bao giờ có thể quên được:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”

Dù đi đâu, về đâu, ta luôn nhớ về “mình”. Từ vựng đơn giản nhưng thân thiện. “Ta” và “mình” không thể nào quên kinh nghiệm “ngọt ngào và cay đắng”. Hình ảnh ẩn dụ “cay đắng” là những gian nan, vất vả mà đồng bào, cán bộ phải trải qua trong cuộc kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác ngoài “ngọt ngào”. Từng nỗi nhớ như tràn về trong tâm hồn Tố Hữu, thể hiện một tình cảm sâu nặng như tình yêu dành cho “người thương”. Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu nỗi nhớ Việt Bắc của tác giả.

Toàn bài thơ đượm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ nét hồn thơ Tố Hữu. Từ “nhớ” và phép so sánh độc đáo diễn tả một nỗi nhớ da diết. Kỹ thuật gieo vần, thể thơ lục bát được sử dụng điêu luyện khiến lời ca ngọt ngào, mượt mà. Việc liệt kê hàng loạt hình ảnh, địa danh của Việt Bắc khắc họa sâu sắc nỗi nhớ quê hương thứ hai của nhà thơ.

Đoạn thơ trên là bản tình ca về lòng thủy chung, là tiếng nói trái tim của thi nhân hay của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Bằng những vần thơ giàu cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc, không chỉ là tình cảm của người công dân xã hội mà sâu nặng như tình đồng bào ruột thịt. Nhờ đó, Việt Bắc trở thành một yếu tố tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

Bằng những vần thơ thấm đượm tinh thần dân tộc, nỗi nhớ nhung, thủy chung giữa người cán bộ và nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc và cuộc kháng chiến được khắc họa rõ nét. Rõ ràng Tố Hữu xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

3. Cảm nhận khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ý nghĩa nhất:

Bài thơ Việt Bắc được sáng tác nhằm hưởng ứng một sự kiện chính trị xã hội. Đó là việc Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về thủ đô khi thủ đô được giải phóng. Suốt mười lăm năm gắn bó với Việt Bắc, giờ phút chia tay Tố Hữu rất xúc động đã viết bài thơ. Bài thơ mang dáng dấp của một bản tổng kết lịch sử. Tên bài thơ được Tố Hữu chọn làm nhan đề cho cả tập thơ kháng chiến và được vinh danh là một trong một trăm bài thơ hay nhất thế kỷ XX của Việt Nam.

Bài thơ mang âm hưởng chung của thể thơ ngọt ngào, cấu trúc đối thoại, thể thơ, ca dao quen thuộc. Đoạn thơ là nỗi nhớ Việt Bắc của người đi, là lời của người đi.

Câu đầu của khổ thơ có một so sánh đặc biệt: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Bài thơ không phải là nỗi nhớ người yêu mà là nỗi nhớ Việt Bắc. Tố Hữu là người ít viết về tình yêu đôi lứa, nhưng không có nghĩa là ông không có những tình cảm đó. Bài thơ đã nói lên cảm xúc thật của người yêu. Nhớ Việt Bắc đến ngây ngất, thiết tha, nồng nàn, ngọt ngào. Thơ Tố Hữu chứa đựng những cảm xúc lớn: hướng về Tổ quốc, hướng về nhân dân nhưng khi diễn tả những tình cảm ấy, ông lại nói bằng ngôn ngữ của những người yêu say đắm, ám ảnh lòng người suốt thời gian và không gian, khiến người ra đi phải thốt lên nửa cảm thán, nửa so sánh, nửa ngờ vực, tạo cho câu thơ một sức gợi cảm đặc biệt. Việt Bắc với những khung cảnh quen thuộc đã được tái hiện vô cùng sống động:

“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm trưa bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

Ở đây nhà thơ không miêu tả chi tiết mà chỉ gợi nhắc. Bởi vì đối với những người liên quan, chỉ điều đó thôi cũng khiến họ cảm thấy tốt hơn. Những hình ảnh “trăng mọc”, “nắng chiều” thể hiện sự hoài niệm xuyên suốt thời gian cũng như gợi lại những kỉ niệm về một ngày nào đó và những khoảnh khắc cuối ngày đầy xao xuyến.

Hình ảnh bếp lửa gợi lên sự sum họp ấm cúng của những người thân yêu. Hình ảnh “khói và sương” đã đánh thức bao cảm xúc ở những bản làng xa xôi của Việt Bắc quanh năm mây mù. Điệp ngữ “nhớ từng” được lặp lại để khẳng định người lữ khách chưa quên một địa danh, sự việc, địa danh nào, từ “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…” luôn trong linh hồn của người ra đi. Dòng sông có lúc cạn, có lúc đầy nhưng tình cảm với Việt Bắc thì luôn đong đầy.

Dù đã đi xa nhưng người ra đi không thể nào quên những ngày gian khổ sống giữa lòng Việt Bắc:

Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi,
Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

Chia sẻ lúc khó khăn luôn để lại ấn tượng sâu sắc nhất. Tính nhân văn tỏa sáng trong hoàn cảnh khó khăn.

Việt Bắc đã sẻ chia từ nửa bát cơm, củ sắn rất cụ thể trong đời sống vật chất đến những ngọt bùi, đắng cay khôn tả trong đời sống tinh thần. “Mình đây, ta đó” luôn hòa quyện với nhau, có “Ta” sẽ có “Mình”. Các chi tiết vừa hiện thực vừa mang tính tượng trưng. Tất cả đều hướng người đọc nhận ra giá trị “đồng cam, cộng khổ” mà người Việt Bắc và người kháng chiến cũng nêu cao. Chi tiết “Chăn sui đắp cùng” gợi không khí kháng chiến. Chi tiết này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. “Chăn đắp cùng” không đủ để chống lại cái lạnh thấu xương của mùa đông miền Bắc, nhưng đã thực sự sưởi ấm lòng người, kết nối tình người, cũng như nửa bát cơm nửa củ sắn nhưng ấm áp với hương vị tinh thần ngọt ngào của nó.

Hai câu tiếp theo là nỗi nhớ của người Việt Bắc:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

Với mẹ, tấm lưng trần rám nắng đã nói lên tất cả. Chi tiết này vừa thực, vừa gợi chính xác cuộc sống khó khăn của người Việt Bắc trong cuộc mưu sinh. Tuy nhiên, họ đã “chia đôi củ sắn, bát cơm” cho cách mạng. Tấm lòng của những bà mẹ Việt Bắc, của những người Việt Bắc thật đáng quý.

Những câu thơ còn lại tiếp tục nói về gian khổ nhưng nghiêng về tinh thần lạc quan của người kháng chiến.

“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo…”

Bức tranh Việt Bắc được tái hiện một cách chi tiết, sinh động và một thời gian lao cũng được khắc họa khá chi tiết qua nỗi nhớ. Những vấn đề trọng đại của đất nước đã trở thành vấn đề của trái tim, làm cho câu thơ ngọt ngào dễ tiếp nhận người đọc.