1. Dàn ý phân tích chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là nhà văn xứ Huế, có phong cách nghệ thuật độc tài với sở trường tùy bút, tùy bút.
- Kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Được rút ra từ cây bút cùng tên, thể hiện được cái “tôi” trữ tình và vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.
Thân bài:
- Tiêu đề của bài viết:
- Nhan đề độc đáo, mới lạ sử dụng câu hỏi từ.
- Cảm phục mạnh mẽ vẻ đẹp trữ tình của sông Hương – dòng sông lịch sử, thể hiện khát vọng hướng thiện và xây dựng cái đẹp của người dân xứ Huế.
a) Hình ảnh sông Hương
- Thượng lưu sông Hương:
- Nhìn từ thượng nguồn, sông Hương có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn.
- Dòng sông Hương mọng nước rợp bóng mát ngàn cây.
- Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại.
- Sông Hương hiện lên như một cô gái giang hồ phóng khoáng, hoang dại.
- Nghệ thuật: Gây ấn tượng bằng các động từ, tính từ, so sánh, nhân hoá táo bạo.
- Sông Hương trước khi vào kinh thành Huế:
- Trở thành một người hiền lành và trung thành của đất cố đô.
- Toàn bộ dòng sông giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
- Sông Hương là một cô gái đẹp mơ màng giữa cánh đồng hoang dã châu Á.
- Khi ra khỏi núi, sông Hương như một cô thiếu nữ bừng tỉnh đánh thức sức trẻ và những khao khát, khao khát của tuổi trẻ để đổi dòng liên tục.
- Nghệ thuật: Phương pháp kể chuyện, miêu tả kết hợp thấm nhuần, tài hoa đã làm cho sông Hương nổi bật trong sự phối hợp tuyệt vời của cảnh vật vừa nên thơ vừa trữ tình hài hòa.
- Sông Hương chảy vào thành phố Huế:
- Dòng sông Hương reo vui giữa những khoảng sân xanh mướt của ngoại ô Kim Long.
- Dòng sông kéo một đường thẳng thật yên bình theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, khắc một cánh thật hiền về Cồn Hến, dòng sông mềm mại chắc chắn sẽ đi như tiếng “xin vâng” không lời của tình yêu.
- Sông Hương chỉ thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của Huế.
- Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và các nhánh của nó tạo nên nét cổ kính của cố đô.
- Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” dành cho Huế.
- Sông Hương được cảm nhận ở nhiều góc độ khác nhau, sông Hương được đón nhận, so sánh trong các ngành công nghệ, vẻ đẹp ấy được hội tụ dưới cái nhìn tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc:
- Sông Hương mang vẻ đẹp sử thi, ghi dấu ấn huy hoàng của một thời là dòng sông xa xôi, biên giới.
- Dòng sông Hương trở thành chứng nhân lịch sử.
- Sông Hương qua góc nhìn văn hóa, thơ ca:
- Sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa:
- Về quan điểm âm nhạc: Gắn sông Hương với ca Huế.
- Từ góc độ văn hóa: Người nghệ sĩ tưởng tượng về Đại thi hào Nguyễn Du và về nàng Kiều.
- Sông Hương từ góc độ thơ ca:
- Mỗi nhà thơ đều có khám phá riêng về nó.
- Sông Hương là nỗi oan ức trong nỗi nhớ xa xưa trong thơ bà huyện Thanh Quan, là sức mạnh hồi sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
- Nghệ thuật so sánh, liên tưởng độc đáo tạo nên dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật thơ tiên hiệp.
b. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Cái “tôi” tài hoa, uyên bác.
- Cái “tôi” nặng lòng với quê hương.
- Cái “tôi” đa phong cách, mang nét riêng, đậm chất thơ.
- Phong cách trang nhã, tinh tế, tài hoa, lắng đọng vào chiều sâu nội tâm.
- So sánh và nhân hóa bạo lực.
- Vận dụng nhiều kiến thức về địa lý, văn hóa, lịch sử, có thể nhìn sông Hương dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Ngôn ngữ chọn lọc, uyên bác.
c. Đánh giá
- Thể hiện tình yêu của nhà văn đối với sông Hương, cố đô Huế.
- Qua tác phẩm thể hiện sự hiểu biết về văn hóa, lịch sử, địa lý phong phú của tác giả.
- Hủy thành công của tác giả khi có thể kí, thể hiện được cái “tôi” riêng biệt, chứa đựng được cảm xúc.
- Để lại bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương cho mỗi chúng ta.
Kết bài:
Bày tỏ cảm xúc cá nhân: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một khám phá hiển nhiên và thể nghiệm cái mới lạ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với việc có thể bỏ ngòi bút. Qua đó, tác giả đã cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định tài năng uyên bác của mình.
2. Phân tích chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông siêu hay:
Huế, mảnh đất cố đô với những câu ca dao ngọt ngào, những điệu hò sâu lắng, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. Và sông Hương, dòng sông chảy qua lòng thành phố, chính là linh hồn của Huế. Trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ miêu tả vẻ đẹp của sông Hương mà còn gửi gắm vào đó cả tâm hồn, tình cảm của mình. Qua ngòi bút tài hoa, sông Hương hiện lên không chỉ là một dòng sông địa lý mà còn là một biểu tượng văn hóa, một nhân chứng lịch sử.
Trước hết nhà văn khám phá sông Hương dưới góc nhìn địa lí. Ngay từ những câu văn mở đầu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn độc giả làm một cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sông Hương để thấy được sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng say đắm. Sông Hương được khắc họa bằng hình ảnh đầy ấn tượng: mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy qua những cơn lốc giữa màu sắc rực rỡ chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng… Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương giống như một bản trường ca của rừng già với thanh âm rầm rộ của tiếng nước qua ghềnh thác. Âm hưởng hào hùng đã khiến câu văn miêu tả sông Hương ở vùng thượng lưu đậm đà chất sử thi lãng mạn. Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa kết hợp với khả năng liên tưởng phong phú đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy dòng sông như một sinh thể có linh hồn có cảm giác có tính cách lúc dữ dội nó tựa như cô gái Digan man dại, phóng khoáng. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng khoáng, lúc êm đềm nó mang sắc đẹp dịu dàng của người mẹ phù sa bồi đắp nuôi dưỡng mảnh đất xứ sở. Hình như bất kỳ dòng sông nào ở chốn thượng nguồn cũng dữ dội, bạo liệt. Sông Đà của Nguyễn Tuân là một loại thủy quái khổng lồ dữ dội, bạo liệt, xảo trá. Cũng là miêu tả cái dữ dội, mãnh liệt của dòng sông, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương đúng là một bản trường ca chứ không phải một bản anh hùng ca như sông Đà của Nguyễn Tuân.
Xuôi dòng sông Hương ra khỏi đại ngàn – sông Hương đã khép lại vẻ dữ dội bạo liệt của mình: đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong cái hang đá ở chân núi Kim Phụng. Kể từ đây sông Hương đã mang một vẻ đẹp khác. Sông Hương không còn là một cô gái Di gan với tâm hồn tự do, phóng khoáng mà đã trở thành một người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, đợi người tình nhân của mình đến đánh thức dậy. Chẳng còn đâu nữa những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe. Sông Hương hiện ra với những nét vẽ dịu dàng, bay bướm với những đường cong thật mềm, một hình cung thật tròn. Cũng chẳng còn sắc màu chói lọi, rực rỡ mà chỉ thấy dòng sông mềm như tấm lụa với màu nước thay đổi theo từng thời điểm trong ngày: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Có thể nói qua những sắc màu gợi cảm để sông Hương “bình dị mà không tầm thường”, “trầm mặc mà không ủy mị”, “dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).
Đẹp nhất, duyên dáng nhất, trữ tình nhất là lúc sông Hương về được với thành phố Huế. Nó như tìm đúng đường về nên vui tươi hẳn lên. Tác giả cảm nhận sông Hương giống như một cố nhân xa xứ, háo hức được trở lại với mảnh đất quê hương xứ sở. “con người” ấy ngắm nhìn thành phố từ xa thấy chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Tách khỏi Huế sông Hương chỉ là một dòng nước chảy vô tri, chảy giữa đôi bờ nhưng gắn với Huế thì cảnh vật nào cũng thanh thoát nhẹ nhàng, dịu dàng như chính giọng nói ngọt ngào của con người nơi đây. Những địa danh: Hòn Chén, Nguyệt Điền. Tuần, vọng Cảnh, Thiên Thai trở nên sống động hơn. Và giáp mặt với thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến và làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Sông Hương qua những từ tượng hình đã hiện ra thật rõ nét, sống động.
Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vùng cao ở ngoại ô Vĩ Dạ nhớ lại một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột rẽ dòng sang hướng Đông Tây để gặp thành Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Cuộc chia tay của sông Hương với Huế giống cuộc chia ly của đôi tình nhân với bao vương vấn và cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhà văn cũng phát huy sức liên tưởng để thấy sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc hành trình từ thượng nguồn về phía hạ lưu của sông Hương để thấy sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục. Ông đã thổi hồn mình vào sông Hương để khám phá vóc dáng và tính cách của dòng sông thuộc về thành phố duy nhất này.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhìn sông Hương từ góc độ lịch sử. Sông Hương không chỉ là một cô gái Digan man dại. Không chỉ là người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa mà dòng nước sông Hương còn chở trên mình bao biến động thời gian, bao vui buồn nhân thế, bao thăng trầm của thời đại. Sông Hương là chứng nhân của những biến thiên lịch sử, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Nhà văn ví sông Hương viết giữa màu cỏ lá xanh biếc là để nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình. Sông Hương là một bản trường ca và cũng là một bản tình ca. Từng nhánh rẽ của dòng sông đến những cây đa, cây dừa cổ thụ cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược về quá khứ để thấy vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi, trong những thế kỉ trung đại với tên gọi Linh Giang nó đã oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn liền với chiến công của Nguyễn Huệ, sông Hương đẫm máu trong những cuộc khởi nghĩa thế kỉ XX, sông Hương cũng gắn liền với cách mạng tháng Tám. Sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân. Tác giả đã so sánh với các trung tâm văn hóa khác để thấy sông Hương bị hủy diệt một cách đau đớn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy sông Hương tự hiến đời mình là một chiến công, từng giữ những nhiệm vụ lịch sử vinh quang, lịch sử dân tộc đã ghi bằng nét son. Tên của thành phố Huế, của sông Hương đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc. Không thể nói hết niềm tự hào, kiêu hãnh về một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng “sông Hương”.
Bằng tất cả sự tinh tế của mình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy sông Hương hàm chứa trong nó nền văn hóa phi vật thể. Sông Hương chính là dòng sông âm nhạc. Từ âm thanh của dòng sông: tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga lên mặt nước, tiếng mái chèo khua giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền … đã làm nên những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Giữa đời thường, sông Hương là một bản tình ca. Những câu hò xứ Huế vút lên luyến láy bồi hồi xao động: “con nước còn nước còn về còn nhớ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nghe vọng về từ trong sâu thẳm những câu hò của Ưng Bình
Thúc Dạ Thị của con người cố đô:
Chiều chiều trước bến Phu Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Nếu như các nghệ sĩ khác nhìn sự lặng tờ của sông Hương mà nghĩ tới tâm trạng dùng dằng mong chờ của con người thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có những liên tưởng riêng, độc đáo. Tác giả thấy dòng nước chùng chình giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nghe nhạc Huế mà nghe ban ngày thật là vô duyên bởi nhạc Huế có linh hồn riêng, cốt cách riêng mà hay nhất là được nghe trên sông Hương, giữa mênh mang của sóng nước, giữa tĩnh lặng của màn đêm. Từng lời ca tiếng nhạc thấm sâu vào lòng người để lại những dư vị không nguôi. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì Nguyễn Du đã có những đêm xuôi thuyền trên sông Hương. Ngắm nhìn phiến trăng sầu treo lơ lửng giữa trời trên sông nước êm đềm. Rồi lắng nghe những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển và những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong truyện Kiều, trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thoảng mưa sầu, lúc trong, lúc đục của Kiều, phải chăng có tiếng của âm nhạc cổ điển Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hóa thân vào một nghệ nhân già. Nghe những câu thơ tả tiếng đàn Thúy Kiều chợt nhận ra âm hưởng của nhạc cung đình và bật thốt lên đó chính là Tứ Đại Cảnh.
Sông Hương còn là dòng sông thơ. Con sông ấy không bao giờ lặp lại chính mình trong cảm hứng thi ca của những người nghệ si. Mỗi người nghệ sĩ có cách nhìn, cách cảm riêng về sông Hương. Sông Hương thay hình đổi dạng trong những trang thơ. Bằng những kiến thức phong phú với lối viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thức dậy một dòng sông, đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa và nay. Đó là những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế: Dòng sông trắng, lá cây xanh. Trên văn bản của Hoàng Phủ Ngọc Tường câu thơ của Tản Đà tựa một nét chấm phá gợi cảm khiến dòng sông Hương càng trở nên thơ mộng giữa màu cỏ lá xanh biếc và “dòng sông trắng lá cây xanh” có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên. Đó là một dòng sông Hương như kiếm dựng trời xanh, hùng tráng bất tử trong câu thơ của Cao Bá Quát. Đó là sự tương quan tinh tế giữa sông Hương và không gian xứ Huế trong thơ của Bà huyện Thanh Quan. Nào ai quên được nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt sông Hương cạnh những trang Kiều của Nguyễn Du và thực bất ngờ ông lại gợi dòng Hương giang nước trong veo với những phận Kiều đã được Tố Hữu đề cập đầy chất nhân đạo trong những trang thơ từ ấy. Trong giây phút xuất thần thi sĩ Bùi Giáng, người con của Huế đã viết nên những câu thơ để đời:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Rõ ràng sông Hương là đặc ân của trời đất dành cho Huế, đó là dòng sông huyền thoại, dòng sông thi ca, dòng sông văn hóa. Nhiều người yêu say đắm sông Hương, say đắm những trang văn trang thơ, những tình khúc viết về xứ Huế, sông Hương.
Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương đã thể hiện những nét đặc trưng của thể kí, phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? Ngỡ như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập hồn vào Huế. Với xứ Huế dường như nhà văn hiểu sâu sắc từng cảnh cây ngọn cỏ, tường tận từng tên đất tên làng. Am hiểu sâu sắc về văn hóa Huế, nền âm nhạc cổ điển hay những trang thơ viết về sông Hương. Với sông Hương ông thuộc từng khúc cong, từng dòng nước, chỗ ghềnh thác cuộn xoáy chỗ phẳng lặng như một mặt hồ yên tĩnh. Ông đến với Huế, với phong thái của một người du lãng, với phong cách của một người nghiên cứu. Bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, ông đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của dòng sông cũng như thiên nhiên và con người xứ Huế.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là những trang bút kí chứa lượng thông tin phong phú, chính xác, cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về dòng sông Hương cũng như con người và văn hóa Huế. Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đem đến những trang bút kí đậm dấu ấn của tùy bút ở đó, tác giả tùy theo ngọn bút đưa đi từ sự việc này đến sự việc kia. Từ liên tưởng này đến liên tưởng khác để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy rõ chất thơ. Chất thơ trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn đặt đúng chỗ. Chất thơ thoát ra từ hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật, chẳng thể quên được những xóm làng trung du “bát ngát tiếng gà” hay “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Chất thơ của thiên kí được tác giả điểm xuyết qua ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát hay âm hưởng hoài cổ của thơ bà huyện Thanh Quan hay nhan đề bài ký gợi mãi những âm thanh trầm lắng của dòng sông. Lúc nào cũng trăn trở trước câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Quả thật kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin phong phú. Đây cũng là nét phong cách được định hình của nhà văn tạo nên nét riêng độc đáo. Nhận định trong SGK đã cho ta một định hướng trong việc cảm nhận và lĩnh hội tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cuộc đi tìm cội nguồn. Một sự phát hiện bề dày văn hóa, lịch sử của các hình tượng đời sống. Ở đó luôn luôn có sự gặp gỡ giữa những người yêu nước với một nghệ sĩ có kiến thức uyên bác. Ông biết khám phá bình diện văn hóa với một tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” không chỉ là một bài bút ký địa lý mà còn là một bản tình ca dành cho sông Hương. Qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông trở nên sống động, đa diện và mang đậm dấu ấn văn hóa. Tác phẩm đã thành công trong việc kết hợp giữa chất liệu lịch sử, văn hóa và cảm xúc cá nhân, tạo nên một bức tranh toàn cảnh về sông Hương, một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ cao. Sông Hương trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành một biểu tượng văn học, gợi cảm hứng cho nhiều thế hệ đọc giả. Nó nhắc nhở chúng ta về giá trị của những dòng sông, của quê hương và những giá trị văn hóa truyền thống.
3. Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông được thể hiện ở những điểm nào?
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc:
- So sánh, nhân hóa: Tác giả sử dụng nhiều phép so sánh, nhân hóa để làm cho sông Hương trở nên sinh động, gần gũi như một người bạn.
- Từ ngữ gợi cảm: Tác giả lựa chọn những từ ngữ mang tính gợi cảm, tạo nên những hình ảnh đẹp, âm thanh du dương.
- Miêu tả chi tiết: Tác giả miêu tả chi tiết vẻ đẹp của sông Hương ở từng thời điểm, từng góc cạnh, từ dòng chảy đến màu nước, từ bờ sông đến những cây cối xung quanh.
Cấu trúc câu văn uyển chuyển, nhịp nhàng:
- Câu văn dài ngắn kết hợp: Tác giả sử dụng cả câu văn dài để miêu tả chi tiết, và câu văn ngắn để nhấn mạnh ý chính. Sự kết hợp này tạo nên một nhịp điệu uyển chuyển, cuốn hút người đọc.
- Biện pháp lặp từ, điệp ngữ: Việc lặp lại một số từ ngữ, hình ảnh giúp nhấn mạnh ý chính, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các câu văn.
- Sử dụng các câu hỏi tu từ: Tác giả đặt ra những câu hỏi tu từ để gợi mở suy nghĩ, tạo sự tò mò cho người đọc.
Sự kết hợp hài hòa giữa tả thực và trữ tình:
- Tả thực: Tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ các đặc điểm của sông Hương, từ hình dáng đến màu sắc.
- Trữ tình: Tác giả gửi gắm vào đó những cảm xúc, tình cảm sâu sắc của mình. Sự kết hợp hài hòa giữa tả thực và trữ tình tạo nên một bức tranh sông Hương vừa chân thực, vừa lãng mạn.
Sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử và hiện tại:
- Lịch sử: Tác giả khéo léo lồng ghép những sự kiện lịch sử, những truyền thuyết gắn liền với sông Hương vào bài viết.
- Hiện tại: Bên cạnh đó, tác giả cũng miêu tả sông Hương trong cuộc sống hiện tại, qua đó thể hiện sự biến đổi và phát triển của con người và thiên nhiên.
Sự kết hợp giữa yếu tố địa lý và văn hóa:
- Địa lý: Tác giả miêu tả chi tiết về địa hình, khí hậu, hệ sinh thái xung quanh sông Hương.
- Văn hóa: Tác giả nhấn mạnh vai trò của sông Hương trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Huế.
Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật:
- So sánh: So sánh sông Hương với những hình ảnh đẹp khác như dải lụa, mái tóc…
- Nhân hóa: Nhân hóa sông Hương, làm cho dòng sông trở nên sinh động, gần gũi.
- Ẩn dụ: Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để diễn tả những ý nghĩa sâu xa.
Tạo ra một không gian thơ mộng, lãng mạn:
- Ngôn ngữ hoa mỹ: Tác giả sử dụng nhiều từ ngữ hoa mỹ, tạo nên một không gian thơ mộng, lãng mạn.
- Hình ảnh đẹp: Những hình ảnh đẹp về sông Hương, về con người Huế tạo nên một bức tranh tuyệt vời.
- Âm thanh du dương: Ngôn ngữ của tác giả tạo ra những âm thanh du dương, dễ nghe.