1.Dàn ý phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng Chí:
1.1. Mở bài:
Đôi chút về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một kiệt tác ca ngợi hình ảnh người lính nơi chiến trường.
Đặc biệt, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” có cách miêu tả hết sức độc đáo.
Hiện lên như một bức tranh đẹp vừa có nét hào hùng vừa có nét trữ tình.
1.2. Thân bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
– Hình ảnh câu thơ gợi lên nỗi gian khổ của những người lính trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầy cam go và ác liệt.
– Đêm giữa núi rừng hoang vắng, sương lạnh phủ kín mặt ai, trong hoàn cảnh phải trực ca canh gian khổ không ngơi nghỉ nhưng người lính không hề mệt mỏi mà còn rất nhân hậu. Nhà thơ khi nhìn thấy ánh trăng vô cùng huyền ảo.
– Hình ảnh người lính trong 3 câu thơ trên thể hiện rõ “đứng bên nhau”, họ không đơn độc giữa núi rừng bao la, không đơn độc giữa bao la.
– Họ có những người đồng chí, đồng đội, những người anh em không cùng huyết thống nhưng thân thiết hơn cả ruột thịt.
– Các chiến sĩ sẵn sàng đón địch với một tâm thế hết sức chủ động, dù kẻ thù của ta là thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ hùng mạnh, quân ta đều được trang bị vũ khí hiện đại.
– Hình ảnh “Đầu súng” tượng trưng cho chiến tranh, bom đạn, chết chóc, trái ngược hoàn toàn với “Trăng treo” một hình ảnh lãng mạn, trữ tình, mềm mại. Nhưng khi đặt cạnh nhau, chúng lại trở thành một bức tranh hoàn hảo, vô cùng tuyệt vời.
1.3. Kết bài:
Tác giả Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh bằng chất thơ vô cùng tinh tế, sức lan tỏa lớn, dùng chất lãng mạn để tôn lên sự khắc nghiệt của hiện thực.
Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay của tác giả Chính Hữu, trong đó hình ảnh thành công nhất của bài thơ là hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
2. Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng Chí hay nhất:
Từ bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Trong truyền thuyết cung trăng hay Hằng Nga ăn trộm thuốc trường sinh, đó là những mảnh ghép trong đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn nữa, trăng ra trận, trăng che chở cho xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo thật đẹp trong bài thơ Đồng chí. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho xuất bản tập thơ Đầu súng, Trăng treo. Vậy là tác giả hài lòng với hình ảnh đẹp, nên thơ, rất thực nhưng không thiếu phần lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo – đó là bức tranh tả thực về một bức tranh chân thực và sống động. Giữa núi rừng, rừng hoang sương muối giữa đêm vắng thanh bình bỗng hiện ra vầng trăng treo lơ lửng trên trời. Và hình ảnh này thật lạ lùng làm sao, súng và trăng vốn đối lập với nhau bao lâu nay đã xa cách bỗng hòa vào nhau thành một hình ảnh nối kết. Nhà thơ không miêu tả mà chỉ gợi, chỉ đưa ra những hình ảnh nhưng ta liên tưởng được nhiều điều. Trong đêm quạnh hiu, người lính cùng nhau chờ giặc tới, ánh trăng soi sáng hoang vu bao la, soi sáng tâm hồn, soi sáng cả tâm hồn…
Giờ đây, người lính dường như không còn quan tâm đến cảnh chiến đấu sắp tới, anh thả hồn theo trăng, anh say mê ngắm nhìn ánh trăng soi trên đỉnh núi, tâm hồn của người nông dân chua ngoa, hay trồng trọt.Trên phiến đá cằn cỗi, bỗng một ngày trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp của ánh trăng ngàn năm đã có. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, phong thái điềm đạm, lạc quan mới có thể nhìn thấy một hình ảnh nên thơ như vậy. Chút nữa thôi, không biết ai sống ai chết, đây có thể là giây phút cuối cùng của tôi trên cõi đời này, nhưng tôi vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan đi cái lạnh của đêm sương, trăng tỏa sáng rực rỡ làm cho lòng người sáng ngời, trăng như hòa vào để làm chứng cho tình đồng chí thiêng liêng của những người lính. Trăng cho họ sức mạnh, tắm mát tâm hồn họ thêm trong sáng, cao thượng, trăng còn là người bạn, người đồng chí của anh bộ đội cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo – hình ảnh đẹp giàu sức khái quát. Tổ hợp súng và trăng; súng tượng trưng cho chiến trận – vầng trăng là hình ảnh của hòa bình và hạnh phúc; súng là người – trăng là quê hương bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh của người lính dũng cảm, kiên cường – vầng trăng là hình ảnh của thi nhân. Sự kết hợp hài hoà tạo nên chất lãng mạn bay bổng và nét tả cụ thể nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính đang tham gia. Họ chiến đấu vì hoà bình, chiến đấu vì ánh trăng trên đỉnh núi. Thử tưởng tượng giữa đêm khuya núi rừng trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính hào hoa với khẩu súng trên vai, nòng súng hướng lên trời trăng lơ lửng. ngay tại thùng. Đó là biểu tượng của khát vọng hòa bình, tượng trưng cho tư thế lạc quan, điềm tĩnh và lãng mạn của người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc.
Thần của câu thơ Đầu súng trăng treo chữ treo, ta thử thay bằng chữ mọc, thì làm sao có sự lãng mạn? Và thay bằng chữ lên cũng không phù hợp, bởi đó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng mọc rồi trăng lặn, sẽ không còn những điều bất ngờ kỳ diệu nữa. Chỉ có trăng treo. Vâng, chỉ có Đầu súng trăng treo mới lột tả hết được vẻ đẹp, sự bồng bềnh nên thơ của một đêm trăng chờ giặc tới, không thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu rằng bài thơ dường như được sáng tác vào thời điểm hiện tại đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là rừng sương lạnh và lòng đầy nơm nớp lo sợ quân thù đến gần, nghĩa là cái chết có thể ập đến từng giây từng phút.
Nhưng người lính ấy vẫn sát cánh bên nhau để tâm hồn họ cùng bay bổng, cùng nhau nở hoa dưới trăng. Nếu được mô tả thực tế, mặt trăng đó sẽ có hình dạng của không gian ba chiều. Ở đây, nhìn từ xa, cả trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng, và trong hội họa, nó mang tính tượng trưng cao. Tố Hữu cũng có câu thơ như thế này: Ánh sao trên đầu súng anh đội nón, Phạm Tiến Duật Vầng trăng lên bếp lửa hay Hoàng Hữu Còn nửa vầng trăng – Ai quên phía chân trời…
Như trên đã nói, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lại lấy hình ảnh đầu súng trăng treo làm nhan đề cho tập thơ của mình. Đó là biểu tượng, khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời của chất lãng mạn trong thơ ca cách mạng. Lãng mạn nhưng không trốn tránh, không quên bổn phận và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì người ta cần có những khoảnh khắc riêng của cuộc đời. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ, cuộc sống tẻ nhạt vô cùng. Âm hưởng của bài thơ đã đi đúng vào trào lưu lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã được tìm thấy nhiều trong thơ ca Việt Nam và hình ảnh đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.
3. Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng Chí đạt điểm cao nhất:
Sau tác phẩm Trở về, Chính Hữu tiếp tục viết về người lính trong kháng chiến, đây cũng là một mảng đề tài rất mới của văn học cách mạng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Trong bài thơ, tác giả không sử dụng nhiều nghệ thuật, ngôn ngữ giản dị như trong bộ quân phục nhưng hình ảnh thơ đẹp là điều mà bất cứ người đọc nào cũng có thể nhận thấy trong thơ ông. Đặc biệt là hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”.
Cả bài thơ được viết với bút pháp hiện thực, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ rất thực, gian khổ của chiến tranh rất thực, tình đồng chí của người lính rất thực và những đêm chờ giặc đến cũng rất thực:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Những người lính được giới thiệu trong bài thơ là những người gắn bó với ruộng đồng, với “vườn không nhà trống” nhưng họ “bất chấp” như lẽ phải, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đánh giặc. Người lính ra trận thì hiểu nhau đến tận xương tủy, khó khăn gì cũng chia sẻ với nhau. Họ đã sát cánh chiến đấu bằng tình yêu nồng nàn nhất, cái “nắm tay” đến đúng lúc để họ xóa đi bao gian nan:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày.
Tất cả những lí do đó đủ để Chính phủ kết thúc bài thơ bằng ba câu thơ ngắn chứa đựng hình ảnh người lính. Họ phục kích trong những đêm “sương” lạnh và độc, còn độc và lạnh hơn cả khi “áo rách”, “chân không”, nhưng hơi ấm từ tình đồng chí đã sưởi ấm chính người lính. Sở dĩ sẵn sàng “chờ giặc tới” là do được “kề vai sát cánh”, cùng nhau gắn bó, chia sẻ gian khổ nơi chiến trường. Những câu thơ không chỉ ra khói bụi của chiến tranh mà cho ta thấy sự khốc liệt của hoàn cảnh khắc nghiệt mà hoàn cảnh mang lại.
Sau những câu tự sự dài này, câu cuối của bài thơ “Đầu súng trăng treo” chỉ có 4 tiếng khiến nhịp thơ đang lan tỏa đột ngột thay đổi, cô đọng, gây chú ý lớn. trong đầu đọc. cộng đồng địa phương. người đọc. Chữ “treo” tạo nên sự liên tưởng bất ngờ nối mặt đất với không gian bao la. Đó có lẽ là cái hay nhất của bài thơ. Một số người đã nghĩ rằng “mặt trăng” tượng trưng cho hòa bình, nghệ thuật và chất lượng thơ ca. “Súng” tượng trưng cho sự giao tranh, khốc liệt và hiện thực của chiến tranh nên biểu tượng của người lính đang chiến đấu vì cuộc sống hòa bình. Nhưng Chính Hữu từng tâm sự: “Trong chiến dịch, có nhiều đêm trăng sáng. Đi phục kích trong đêm, trước mặt tôi là ba nhân vật: cây súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật đó hòa quyện vào nhau tạo nên hình tượng “Đầu súng trăng treo”.
Như vậy, chúng ta cần hiểu rằng, biểu tượng mà Chính Hữu xây dựng được tạo nên từ những câu thơ bay bổng trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt. Suốt đêm, trăng từ trên cao rơi xuống, có lúc như treo đầu súng. Những đêm phục kích như vậy với người lính như những người bạn. Vì vậy, hình ảnh người lính trong bài thơ không hẳn là chiến đấu mà là tình cảm của những con người cùng chung lý tưởng.
“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, xứng đáng khép lại một tác phẩm thơ thành công của Chính Hữu.