Phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn

Phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn
Bạn đang xem: Phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn:

1.1. Tình yêu thiên nhiên:

Tác giả dùng trực giác và trí tưởng tượng của mình để miêu tả cảnh quan núi Dục Thúy như sau:

– “Liên hoa phù thủy thượng”: Phép ẩn dụ sáng tạo so sánh núi Dục Thúy với bông sen nổi trên mặt nước → Gợi khung cảnh thoát tục.

– “tiên cảnh”: Làm nổi bật vẻ đẹp của núi Dục Thúy, tựa như chốn thần tiên, chốn bồng lai tiên cảnh hòa quyện vào thế giới, rơi xuống cõi trần gian ”ngụy trần gian”. 

– Các liên tưởng nảy sinh khi chiêm ngưỡng thiên nhiên:

+ “Tháp ảnh trâm thanh ngọc”: Hình dung hình dáng ngọn núi phản chiếu trên mặt nước giống như chiếc trâm cài ngọc xanh. 

+ “Ba quang kính thúy hoàn”: So sánh ánh sáng từ sóng nước phản chiếu hình ngọn núi như thể phản chiếu trên mái tóc xanh mượt. 

→ Đây là những chi tiết độc đáo, miêu tả cụ thể và ảnh cận cảnh núi Dục Thúy 

→ Nguyễn Trãi có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. 

1.2. Tâm trạng hoài cổ và những suy ngẫm về cuộc đời:

– Hai câu thơ cuối bộc lộ suy tư về con người, lịch sử, dân tộc:

+ “Hữu Hoài”: hoài niệm vị học giả, danh sĩ nổi tiếng đời Trần, Trương Hán Siêu. 

+ Bức tranh “Bi khắc tiển hoa ban” gợi lên nỗi tiếc nuối, thương xót của nhà thơ. 

1.3. Đánh giá đặc sắc nghệ thuật:

– Rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh độc đáo, thú vị. 

– Ngôn ngữ được sử dụng chính xác.

2. Phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn hay:

Khi nói về Nguyễn Trãi, người anh hùng, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất, vua Lê Thánh Tông từng có câu thơ rằng: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (“Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê”). Quả thực, đọc tác phẩm của ông, người ta có thể thấy thi nhân thực sự là một người có tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người và quê hương một cách say đắm. Điều này có thể thấy rất rõ trong tác phẩm “Dục Thúy Sơn”.

Đầu tiên, nhà thơ giới thiệu cảnh một cách khái quát ở câu thơ mở đầu.

“Hải khẩu hữu tiên san;”

(“Cửa biển có non tiên;”)

Núi Dục Thúy được gọi bằng từ đẹp đẽ, mĩ miều “tiên san” (Núi Tiên). Ngọn núi này nằm gần cửa biển. Vì vậy, chỉ trong một câu thơ ngắn gọn có năm tiếng, nhà thơ đã truyền tải thông tin về núi Dục Thúy và khẳng định đây là chốn thần tiên.

Dù đi đi lại lại nhiều lần qua “tiền niên lũ vãng hoàn” nhưng nhân vật trữ tình vẫn bị choáng ngợp không thôi trước cảnh sắc đẹp tuyệt vời.

“Liên hoa phù thủy thượng;

Tiên cảnh trụy trần gian.”

(“Cảnh tiên rơi cõi tục;

Mặt nước nổi hoa sen.”)

Do điểm nhìn quan sát từ xa và phạm vi bao phủ rộng nên con người có thể quan sát toàn cảnh Núi Dục Thúy. Nhà thơ đã khéo léo so sánh hình dáng của ngọn núi với bông sen cao quý nổi trên mặt nước trong xanh bằng phép ẩn dụ “Liên hoa phù thủy thượng”. Trong nguyên văn bài thơ, năm chữ này không có bất kì một từ ngữ biểu thị sự so sánh nào. Thay vào đó, nhà thơ dùng động từ “phù “, có nghĩa là “nổi”. Núi Dục Thúy dường như được đồng nhất trực tiếp với hoa sen, giống như ý nghĩa biểu tượng của loài hoa này, tác giả gợi lên một vẻ đẹp thoát tục và cao quý của núi Dục Thúy. Đây là một hình ảnh và phong cách thực sự độc đáo. Nhìn vào bức ảnh toàn cảnh ở nơi đây, thi nhân có cảm nhận và cho rằng núi Dục Thúy chính là một “tiên cảnh”. Từ “tiên” tiếp tục được dùng để nhấn mạnh vẻ huyền bí và tráng lệ của ngọn núi. Giờ đây, trong mắt con người, Dục Thúy xuất hiện giống như một khung cảnh tuyệt đẹp của chốn bồng lai tiên cảnh rơi xuống hạ giới, trần gian. Tiếp theo, nhà thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thơ mộng một cách cận cảnh và chi tiết.

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc;

Ba quang kính thúy hoàn.”

(“Bóng tháp hình trâm ngọc;

Gương sông ánh tóc huyền.”)

Có thể nhận thấy rằng khi con người say mê chiêm ngưỡng thiên nhiên, một số liên tưởng thú vị sẽ xuất hiện. Trong cảm nhận của nhân vật trữ tình, bóng tháp hiện lên trên mặt nước như chiếc trâm cài ngọc xanh biếc, ánh sáng của sóng nước như tấm gương phản chiếu mái tóc xanh. “Trâm ngọc” và “ánh tóc huyền” hai cụm từ này gợi lên hình ảnh trẻ trung, thuần khiết của một cô gái xinh đẹp và duyên dáng. Từ đây xuất hiện ngọn núi Dục Thúy với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Có thể nói Nguyễn Trãi có lối viết, bút pháp, liên tưởng rất mới mẻ, thú vị khi khắc họa cảnh sắc thiên nhiên núi Dục Thúy nơi đây. Ông dùng vẻ đẹp của con người để so sánh và hình dung vẻ đẹp của thiên nhiên. Đây cũng là điểm khác biệt của ông với các nhà thơ khác.

Đứng trước phong cảnh đẹp mê hồn, nhà thơ bày tỏ suy nghĩ, nỗi niềm suy tư của mình như sau:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo;

Bi khắc tiển hoa ban.”

(“Nhớ xưa Trương Thiếu bảo;

Bia khắc dấu rêu hoen.”)

“Hữu hoài” có nghĩa là nhớ lại, hồi tưởng về quá khứ. Khi đặt cụm từ này ở đầu câu, nhà thơ đang khéo léo nói đến học giả nổi tiếng, vị danh sĩ nhà Trần, người đã đặt tên cho núi là Dục Thúy, đồng thời là tác giả của bài thơ được chạm khắc trên bia đá “đầy dấu rêu hoen”. Chứng kiến ​​cảnh tượng “vật còn, người mất”, nhà thơ không khỏi xót xa, tiếc nuối. Tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” dường như thấm sâu vào từng câu chữ của bài thơ. Ngoài ra, hai câu thơ cuối còn bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở của nhà thơ về con người, lịch sử, dân tộc.

Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên núi Dục Thủy tuyệt đẹp bằng những hình ảnh so sánh thú vị, sáng tạo và ngôn từ được sử dụng tinh saor, giàu sức gợi. Bút pháp và sự liên tưởng độc đáo trong việc miêu tả hình dáng ngọn núi thể hiện tâm hồn trong sáng và nhạy cảm của nhà thơ. Một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ vẻ đẹp của trời đất. Hoặc đó có thể là tâm trạng hoài niệm hay sự suy ngẫm sâu sắc về sự mong manh của cuộc sống, về cuộc đời vô thường.

“Dục Thúy Sơn” đã mang đến cho người đọc những hình dung cụ thể, rõ nét về núi Dục Thúy – một danh lam thắng cảnh của đất nước Việt Nam. Đọc bài thơ này tôi có cảm giác như đang được tận mắt chứng kiến ​​vẻ đẹp của núi Dục Thủy. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu thêm về tâm hồn cao thượng, trong trẻo của chính người thi sĩ Nguyễn Trãi.

3. Đoạn văn phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn:

3.1. Đoạn văn phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn – Mẫu 1:

Trong “Dục Thúy Sơn”, Nguyễn Trãi bày tỏ niềm say mê với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp cổ tích như tiên cảnh của ngọn núi, phác họa những đường nét, màu sắc cảnh quan của nó, cho ta hình ảnh núi Dục Thúy hùng vĩ. Nguyễn Trãi miêu tả một cách chân thực, sử dụng liên tưởng để tạo ra những so sánh, ẩn dụ độc đáo, tạo không khí huyền ảo, đưa người đọc đến những thế giới thần tiên vừa thực vừa ảo. Núi Dục Thúy do Nguyễn Trãi khắc họa thật hùng vĩ, thơ mộng, thoát tục như hoa sen phật giáo nhưng lại duyên dáng, bồng bềnh như bóng thiếu nữ. Khi đọc những lời thơ miêu tả phong cảnh núi Dục Thúy của Nguyễn Trãi, bạn có cảm giác như đang nhìn vào một tâm hồn thơ mộng hòa mình vào cảnh vật, ngây ngất trước cảnh sắc tuyệt vời của quê hương.

3.2. Đoạn văn phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn – Mẫu 2:

Dục Thúy Sơn là bài thơ tả cảnh ngụ tình độc đáo. Bài thơ được viết theo thể thơ bát cú bằng chữ Hán. Những hình ảnh phong cảnh thơ mộng, đẹp đẽ và huyền ảo. Trong bài thơ, bốn hình ảnh tượng hình chồng lên nhau, hình ảnh này tô điểm cho hình tượng kia, thể hiện cảm xúc, miêu tả của một nhà thơ có tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Nguyễn Trãi cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, sông núi, và ngòi bút tài hoa của ông rất nhạy cảm và tinh tế trong cách gợi tả và gợi cảm. “Dục Thủy Sơn” phản ánh tài năng vĩ đại và nhân cách văn hóa cao quý của Đại Việt trong thế kỷ 15. Nguyễn Trãi đã để lại nhiều bài thơ tràn đầy tình yêu thiên nhiên và đất nước. Đọc bài thơ này, tôi có cảm giác Nguyễn Trãi là “ông tiên ngồi trong lầu ngọc” như bạn ông đã nói. Ông đến thăm núi Dục Thúy và nhớ về Trương Hán Siêu. Đọc thơ ông, chúng ta nhớ đến người anh hùng đã cùng Lê Lợi “bình Ngô“ và thảo “Bình Ngô đại cáo Nói rằng thơ ca mang nặng tình người và tình đời là như vậy. Bốn chữ “Vũ Trụ di lai” to, vuông vức, được khắc rất đẹp trên phiến đá phủ rêu xanh trên đỉnh núi Dục Thúy, dấu tích mà Trương Hán Siêu để lại cho đời. Bất cứ ai đã từng đến thăm ngọn núi này chắc chắn sẽ bồi hồi nhìn thấy “Bia khắc dấu rêu hoen ”…

3.3. Đoạn văn phân tích nét đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua Dục Thúy sơn – Mẫu 3:

Tâm hồn Nguyễn Trãi được khắc họa qua bài thơ “Dục Thúy Sơn” là một con người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống nhưng cũng trĩu nặng nỗi niềm về hoài cổ. Tình yêu thiên nhiên của ông được thể hiện đặc biệt qua những miêu tả nhạy cảm về không gian hùng vĩ, tráng lệ của các cửa sông và trong những hình ảnh so sánh độc đáo. Ông cũng là một vị quan có tâm, luôn quan tâm đến vận mệnh đất nước. Trong khi ngắm cảnh sắc thiên nhiên, ông bày tỏ cảm xúc bằng thơ, vừa bối rối trước khung cảnh thiên nhiên, điều đó càng khiến cảm thấy vắng và xúc động hơn. Tác giả đã thể hiện những dư âm sâu sắc của thiên nhiên, nỗi buồn bằng những cảm xúc hoài niệm. Đó là những giây phút tâm hồn buồn bã và có chút cô đơn, buồn bã nhớ về Trương Thiếu Bảo và tấm bia phủ đầy rêu.