Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta

Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta
Bạn đang xem: Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Giống như nhiều nhà cách mạng khác ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX, Phan Châu Trinh cũng hướng đến mục tiêu cuối cùng là đạt được độc lập và tự do cho dân tộc. Dưới đây là bài viết về chủ đề: Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta, mời bạn đọc theo dõi.

1. Dàn ý Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta:

1.1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Phan Châu Trinh: tiểu sử, tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác.

– Giới thiệu bài “Về luân lí xã hội ở nước ta”: vị trí đoạn trích, giá trị nội dung và nghệ thuật.

1.2. Thân bài:

a. Nêu vấn đề: Khẳng định nước ta chưa có ai biết đến luân lý:

– Tác giả lên tiếng rằng “Xã hội luân lí thuật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến”.

– Phản ánh tình trạng chưa có sự nhận thức đúng về luân lí ở nước ta.

– Phân tích các dạng hiểu sai về luân lí và bác bỏ chúng.

b. Thực trạng và nguyên nhân về luân lí ở nước ta so với châu Âu:

– So sánh với châu Âu:

+ Tại châu Âu, luân lí đã thịnh hành và phổ biến.

+ Nguyên nhân: đoàn kết, tinh thần dân chủ, trình độ văn hóa.

– Tại nước ta:

+ Luân lí thực sự chưa được biết đến.

+ Nguyên nhân:

Thiếu tinh thần đoàn thể, thiếu ý thức dân chủ.

Vấn đề quyền lực và vinh quang trong triều đại phong kiến.

Chế độ vua quan bảo thủ, lạc hậu.

c. Giải pháp và chủ trương truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa:

– Đề xuất cần xây dựng đoàn thể trong dân tộc.

– Đề cao truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa tới người dân Việt Nam.

1.3. Kết bài:

– Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài.

– Thể hiện cảm nghĩ của người phân tích về sự sâu sắc và chân thực của quan điểm tác giả.

2. Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta hay nhất:

Phan Châu Trinh, tự hiệu Tây Hồ (1872 – 1926), sinh ra tại làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Ông là một chí sĩ yêu nước, có quan điểm cứu nước bằng cách tận dụng thế lực thực dân Pháp, đẩy lùi chế độ phong kiến Nam triều lậu thất, và thực hiện cải cách toàn diện nhằm đem lại sự giàu có và mạnh mẽ cho quốc gia. Phan Châu Trinh luôn nhấn mạnh việc sử dụng văn chương để truyền tải, thúc đẩy phong trào cách mạng.

Một số tác phẩm nổi bật của Phan Châu Trinh bao gồm “Đầu Pháp chính phủ thư” (1906), “Tinh quốc hồn ca II” (1907, 1922), “Tây Hồ thi tập” (1904 – 1914), “Xăng-tê thi tập” (1914 – 1915), “Thất điều trần” (1922), “Đạo đức và luân lí Đông Tây” (1925),…

Đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta” là một phần trong bài diễn thuyết “Đạo đức và luân lí Đông Tây”, được Phan Châu Trinh thực hiện và thuyết trình vào đêm 19-11-1925 tại Hội Thanh niên Sài Gòn. Nội dung của đoạn trích thể hiện sự dũng cảm của người yêu nước, táo bạo tiết lộ những bất cập xã hội và tôn vinh ý thức dân chủ. Tác giả khẳng định rằng việc truyền bá luân lí xã hội là vô cùng quan trọng để thức tỉnh nhận thức của dân chúng về nghĩa vụ đối với quê hương và dân tộc, hướng dẫn mọi người hướng tới mục tiêu giành lại chủ quyền độc lập và xây dựng tương lai tươi sáng cho đất nước. Đối tượng của bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh đầu tiên là những người nghe, sau đó mới là toàn bộ cộng đồng người Việt Nam. Phong cách văn chương trong đoạn văn thể hiện sự tinh tế đa dạng: từ sự nhẹ nhàng đến sự mạnh mẽ, từ lời thăm dò đến lời thuyết phục mạnh mẽ.

Trong phần đầu của đoạn trích, tác giả dùng một cách trực tiếp và hiệu quả để đặt nền tảng cho vấn đề chính. Bằng cách sử dụng một chuỗi các câu phủ định, ông tạo ra một tác động mạnh mẽ và sự chú ý của người đọc. Điều này thể hiện sự sắc sảo và nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Vấn đề trọng tâm mà ông nhấn mạnh là tại Việt Nam, khái niệm luân lí xã hội chưa tồn tại: “Ở Việt Nam chưa có ai biết đến luân lí xã hội. Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia khác thì người Việt còn thiếu hiểu biết nhiều hơn.”

Trong phần thứ hai, tác giả thực hiện một phân tích so sánh sâu sắc giữa quan điểm và nhận thức về luân lí xã hội của người châu Âu và người Việt Nam. Điểm khác biệt nằm ở ý thức về nghĩa vụ tới cộng đồng. Tác giả nhấn mạnh rằng xã hội châu Âu đặt mức cao về dân chủ, sự bình đẳng của mọi người và không chỉ quan tâm đến quốc gia và gia đình mà còn đến toàn cầu. Tại Pháp ví dụ, mỗi khi có người sở hữu quyền lực hoặc chính quyền sử dụng sức mạnh để áp đặt lợi ích cá nhân lên lợi ích cộng đồng, người ta sẽ kêu gọi, phản kháng hoặc tổ chức các hoạt động để bảo vệ quyền lợi công bằng.

Tác giả sử dụng bốn luận điểm phản biện và cung cấp các dẫn chứng cụ thể, minh chứng cho việc không tồn tại luân lí xã hội tại nước ta:

Luận điểm thứ nhất: Dân Việt không thể hiện tinh thần lo lắng cho nhau, không có ý thức về nghĩa vụ chung và không hiểu rằng sự sống chung là điều quan trọng. Tác giả sử dụng ví dụ: “Người mình phải ai tai nấy, ai chết mặc ai!” Ông cũng đề cập đến việc bỏ qua người gặp tai nạn hoặc bị kẻ mạnh bắt nạt, thể hiện tâm lý xa cách và thiếu lòng đồng cảm.

Luận điểm thứ hai: Dân Việt không hiểu về tinh thần đoàn kết và không coi trọng lợi ích cộng đồng. Trong quá khứ, dân tộc Việt Nam đã từng thấu hiểu về tầm quan trọng của đoàn kết, tinh thần hợp tác. Họ biết rằng, để sống tốt thì cần cùng nhau ủng hộ, cùng nhau chống lại khó khăn, cùng nhau xây dựng môi trường tốt hơn. Tác giả sử dụng các câu thành ngữ để minh họa sự đoàn kết trong quá khứ: “Không ai bẻ đũa cả nắm,” “Nhiều tay làm nên bếp.” Tuy nhiên, đáng tiếc là tinh thần này đã không còn tồn tại trong hiện tại.

Tác giả chỉ ra rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng dân không hiểu về đoàn kết và lợi ích cộng đồng là do tác động tiêu cực của chế độ phong kiến. Tác giả bóc trần bản chất của các vị vua và quan thời đương, họ đã lừa dối và dụ dỗ dân chúng để bảo vệ vị thế và tham vọng của họ:

Dân không hiểu về đoàn kết và lợi ích cộng đồng bởi vì trong thời gian gần đây, những kẻ theo học quốc nội đã ám chỉ rằng vinh quang và quyền lực của họ quan trọng hơn lợi ích chung, họ chỉ để tâm huyết cho vua và không để tâm huyết cho nhân dân. Họ muốn bảo vệ lợi ích cá nhân của họ bằng cách tạo ra pháp luật và quy định để phá hoại sự đoàn kết của quốc dân.

Luận điểm thứ ba: Vua quan dẫn đến việc áp đặt gánh nặng lên vai dân chúng, họ chỉ biết cưỡi trên đỉnh và lợi dụng, bóc lột cảm tình của dân để thỏa mãn tham vọng và tham lam của họ. Chúng là những người vô tâm, không chịu trách nhiệm, không quan tâm đến lợi ích cộng đồng: Dù cuộc sống có khó khăn, dù dân chúng phải chịu đựng bao khổ đau, miễn là những kẻ đội đai đội mũ ở trên còn thế nào, và những kẻ mặc áo rộng khăn đen còn tàn tàn lạy dưới, thì sau hàng trăm ngàn năm, họ vẫn chưa thay đổi! Tác giả sử dụng nhiều câu thốt nốt cảm xúc để thể hiện sự thất vọng và đau xót trước tình hình đen tối và bất công của người dân: “Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn vua quan lại càng giàu có!”

Có lời khen ngợi dành cho những người nắm quyền thời thịnh, nhưng trong lòng gia đình, họ dựa vào ảnh hưởng quyền thế. Điều này khiến cho những kẻ tham gia vào cuộc đua quyền lực bám vào quý tộc không thể tránh khỏi. Cái cục diện của đời người quan lại từ xưa tới nay vẫn như vậy. Cái cách tôi gọi bọn này là thượng lưu – tôi không coi họ là người thượng lưu thực sự, tôi chỉ sử dụng cụm từ đó để diễn tả một cách dễ hiểu – ở trong nước ta chính là như vậy!

Tác giả nêu rõ danh tính của những kẻ tham nhũng: Xưa kia, họ thường là những người học theo trường phái Nho đã đạt được tấm bằng cử nhân và tiến sĩ, còn bây giờ, họ là những người theo học phương Tây, có thậm chí là những người biết tiếng Tây. Có những người thậm chí bắt đầu từ vai trò nấu bếp, nhờ vào mối quan hệ đã có được từ người chủ để trở thành quan chức. Những người quan chức đã được đề cập trước đây chỉ còn là những kẻ cướp bóc có giấy phép thôi.

Cách tác giả gọi những kẻ quan chức tham lam, không chính trực như trên là đúng đắn và thể hiện sự căm ghét mạnh mẽ của tác giả đối với tầng lớp quan chức thời Nam triều. Theo quan điểm và đánh giá của tác giả, hệ thống quan lại vô cùng hủy hoại, cần phải bị đảo ngược hoàn toàn. Ngoài ra, tác giả cũng cho thấy cần phải chỉ ra sự thấp kém của dân và đất nước. Trước tình hình bất công của những kẻ cai trị lấy cắp của dân, sử dụng tài sản của dân để mua đất và xây dựng nhà cửa, trong khi những kẻ xấu xa cạnh tranh để trở thành quan chức và nhận hòa thưởng… nhưng dân vẫn im lặng, không dám nêu tiếng phản kháng, không dám chỉ trích gì.

Luận điểm thứ tư: Mọi người đều tập trung vào quyền lực, nếu thấy ai có quyền thì đổ dồn theo, nương theo, dựa dẫm vào họ: Những người ở làng thấy có quan đến, các quan chức có quyền thế cũng bám theo. Ai lo cho quan, ai đối đãi tốt với quan, ai chạy theo ngược chiều hay theo chiều, dù là làm ruộng hoặc buôn bán thậm chí cả việc buôn bán trâu cũng đều vui lòng, miễn sao có cơ hội được làm chức xã trưởng hoặc cai tổng, để ngồi trên cao, để thụ đặng trước, để thể hiện quyền thế… thì tất cả những điều đó mới quan trọng. Những người như vậy mà vẫn không có ai chỉ trích hay khinh miệt, thật sự là điều kỳ lạ! Thương thay! Dân làng có một trăm người, nhưng mỗi người đối với người khác đều chỉ chú tâm vào sức mạnh, không có chút gì liên quan đến đạo đức hay lý lẽ. Điều đó thể hiện cách người trong cùng một làng đối xử với nhau, và khi đối diện với những người ngoài làng, thậm chí còn khắc nghiệt hơn nữa. Thật thương! Với một dân tộc như thế, thì việc phát triển tư duy cách mạng trong tư tưởng của họ là điều không thể. Chính vì thế, xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không thể tồn tại.

3. Phân tích nghệ thuật lập luận trong Về luân lí xã hội ở nước ta ngắn gọn:

Giống như nhiều nhà cách mạng khác ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX, Phan Châu Trinh cũng hướng đến mục tiêu cuối cùng là đạt được độc lập và tự do cho dân tộc. Tuy nhiên, mỗi người đã lựa chọn một hướng đi riêng biệt. Với sự nhạy bén và tri thức của một người trí thức, cùng với tầm nhìn mở rộ của người theo chủ nghĩa dân chủ, ông không chọn lối đi bằng bạo lực mà lựa chọn con đường kiên trì thực hiện các mục tiêu như “Khai dân trí”, “Chấn dân khí”, và “Hậu dân sinh” để thúc đẩy sức mạnh cho dân tộc. Các ý tưởng này được thể hiện rõ trong bài viết “Đạo đức và luân lí Đông Tây” viết năm 1925. Đoạn trích về luân lí xã hội ở nước ta là ví dụ tiêu biểu cho quan điểm này.

Bài viết “Đạo đức và luân lí Đông Tây” được Phan Châu Trinh thuyết trình vào đêm 19-1-1925 tại Nhà Thanh niên ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Trong bài viết này, ông ca ngợi vai trò của đạo đức và luân lí, và đề cao tác dụng của chúng. Ông nhấn mạnh rằng mất nước chính là mất đạo đức và luân lí truyền thống. Trong đoạn trích, chúng ta có thể tóm tắt ý chính của Phan Châu Trinh là: Xã hội ở nước ta vẫn còn thiếu tinh thần dân chủ và ý thức cộng đồng. Để trở thành một quốc gia mạnh mẽ như các nước phương Tây, chúng ta cần xác định nguyên nhân và khắc phục tình trạng này. Rõ ràng, đây là một cách đặt vấn đề một cách chặt chẽ, sáng tạo và dễ thuyết phục.

Phần đầu của văn bản, Phan Châu Trinh nêu rõ tình hình đáng tiếc của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỉ XX, với tình trạng dân trí thấp. Điều này hoàn toàn chính xác do chính sách của người Pháp khi thống trị Đông Dương, hướng tới việc làm người dân trở nên dễ dàng kiểm soát. Tuy nhiên, điều thú vị ở đây là cách viết của Phan Châu Trinh không chỉ chính xác mà còn rất thuyết phục. Ông bắt đầu từ tình trạng dân trí thấp, sau đó chỉ ra những hệ lụy của nó. Ông viết: “Xã hội luân lí trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều.” Điều này ám chỉ tinh thần cộng đồng và ý thức xã hội ở nước ta “dốt nát hơn nhiều”, hoặc thậm chí ít được biết đến. Ông không chỉ sử dụng so sánh mà còn dùng từ ngữ để thể hiện điều này. Tác giả cũng thể hiện tâm trạng xót xa và sự phẫn nộ, là thái độ của một con người có lòng yêu nước và tình cảm sâu sắc đối với đất nước. Ông cảm xúc này được thể hiện qua việc lựa chọn từ ngữ và sắp xếp câu chữ. Tuy ông hướng tới sự “duy tâm”, nhưng không từ bỏ những giá trị truyền thống của phương Đông. Điều này cho thấy ông đã thấu hiểu rõ tình hình của thời đại và cách thức thích ứng mà không bỏ lỡ những cơ hội để phát triển nhận thức của người dân.

Sau khi đưa ra bức tranh u tối về tinh thần sống, ý thức xã hội và cộng đồng ở nước ta, tác giả so sánh với chuẩn mực của các nước phương Tây. Một ví dụ mà tác giả sử dụng để thể hiện sự khác biệt là: “Ở Pháp, mỗi khi có người có quyền lực hoặc chính phủ áp đặt sức mạnh để kiềm chế quyền lợi cá nhân hoặc nhóm, người ta phản đối hoặc kháng cự, thậm chí thể hiện sự uy nghi, sử dụng biện pháp dân chủ để thúc đẩy sự thay đổi.” Tình trạng này hoàn toàn xa lạ với người Việt thời đó. Điều này là do họ có “tinh thần đoàn kết”, có “ý thức cộng đồng” – nghĩa là họ đã phát triển tinh thần xã hội hoặc còn gọi là dân trí ở mức cao. Điều này rõ ràng là điểm yếu, không quen thuộc với người Việt Nam như đã được đề cập.

Vậy thực trạng của ý thức xã hội, ý thức cộng đồng thiếu ở nước ta là gì? Theo tác giả, ta thấy một thực tế: “Ai chết ai sống, mỗi người tự lo cho mình, sống kín đáo, cô độc.” Tuy nhiên, đáng chú ý là tác giả không chỉ tập trung vào việc miêu tả biểu hiện này, mà còn cố gắng tìm ra nguyên nhân gốc rễ của nó. Ngược lại, trong quá khứ xa xưa, ta có thể thấy cha ông ta đã không dạy như vậy. Một ví dụ là câu tục ngữ: “Không ai bẻ đũa cả nắm”, tác giả sử dụng để minh họa điều này. Ý nghĩa của câu này là “dân tộc Việt Nam trong quá khứ cũng hiểu về tinh thần đoàn kết, biết về lợi ích chung, biết cùng nhau đóng góp để thực hiện những việc quan trọng…”. Cuối cùng, tác giả chỉ ra nguyên nhân chính của tình trạng này là do những người cầm quyền trong vài trăm năm trở lại đây. Họ mắc căn bệnh “tham quyền lực, tham danh vọng” và chỉ quan tâm đến vua, không quan tâm đến nhân dân, chỉ chú trọng việc nịnh vua mà không chú tâm đến việc chăm lo cho dân. Họ thậm chí đã “phá hủy tận cùng tình thần đoàn kết của quốc gia”.

Khi đọc văn bản, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy thái độ mạnh mẽ của Phan Châu Trinh. Ông biểu hiện sự không chịu nổi, thậm chí khinh thường đối với tầng lớp này. Ông bắt đầu bằng cách sử dụng từ “đám,” “kẻ,” “bọn,” để chỉ chúng, tất cả như là những sinh vật phiền phức như con giun đất. Ngoài ra, ông dùng giọng văn mỉa mai, gớm ghiếc khi đề cập đến những kẻ ham bả vinh hoa: “Dâu trôi nổi, cho dù cực khổ thế nào, họ cũng chỉ cần có người đeo đai, đội mũ, hay người mặc áo rộng, khăn đen lúc nào cũng lay động, thậm chí cả ngàn năm như vậy cũng không thành vấn đề?”. Giọng văn của ông còn thấm đẫm sự thương cảm khi mô tả cuộc sống của người dân: “Dân thông minh mà làm gì! Dân lợi ích mà làm gì! Dân bị tổn thương mà làm gì! Dân càng bị nô lệ, người quan lại càng trở nên giàu có và quyền thế.” Ông đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự phú quý của người quan lại và sự khốn khổ của dân. Tuy nhiên, sự khốn khổ mà Phan Châu Trinh đề cập không chỉ là cơm áo mà còn là sự “ngu đi mà không hề biết”. Họ không còn đủ sự nhạy bén để nhận ra điều này. Những kẻ tham quyền lợi, ham vinh hoa đã vì lợi ích của mình đè nén lên người dân, từ thành thị đến nông thôn, vì cuối cùng “dân càng nô lệ… bọn quan lại càng phú quý.” Nguy hiểm hơn, thói quen tham quyền lợi, lợi ích đã trở thành một thứ dịch bệnh lan tràn, tác động từ người học chữ Nho cho đến người theo học Tây, từ nơi dân quê đến thành phố. Ông tự hỏi, dịch bệnh này sẽ kết thúc khi nào? Ai sẽ là người giải quyết vấn đề này? Đối diện với hiện thực này, ông không thể kìm lại cảm xúc và thốt lên: “Ôi! Một dân tộc như thế thì làm thế nào mà tư tưởng cách mạng có thể nảy nở trong tâm hồn của họ! Xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại trong Việt Nam!”. Bài viết kết thúc bằng một lập luận cùng lúc là một lời kêu gọi. Các vấn đề được liên kết lại theo kiểu mắc xích. Để đạt được độc lập, cần có sự đoàn kết và để có sự đoàn kết, cần “truyền bá Xã hội chủ nghĩa,” phải kích thích nhận thức của người dân và tạo sự đoàn kết. Chỉ khi đó, dân tộc Việt Nam mới có đủ sức mạnh để đối mặt với xâm lăng và thoát khỏi tình trạng nô lệ.