Hãy phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thường của Nam Cao để thấy nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
1. Dàn ý chi tiết cho bài văn phân tích nhân vật Hộ trong Đời thường của Nam Cao:
Khai mạc:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật
Thân bài:
– Gia đình có nhiều đặc điểm tiêu biểu cho trí tuệ và tài năng
– Nỗi khổ của các hộ gia đình khi sống trong xã hội cũ
Kết thúc:
Tóm tắt nội dung và thông điệp truyền tải qua bài phân tích.
2. Bi kịch vỡ mộng văn học:
Ước mơ văn chương của Hồ: Hồ coi sự nghiệp văn chương là lý tưởng của mình. Hộ đã dồn hết sức lực và tâm huyết cho lý tưởng này. “Đói lạnh không nghĩa lý gì với chàng trai trẻ lý tưởng. Trái tim anh thật đẹp. Anh ấy có một tham vọng lớn trong đầu. “Đối với anh ấy lúc đó, nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật ra không có gì quan trọng khác. Anh băn khoăn về một tác phẩm có thể làm lu mờ tất cả các tác phẩm khác cùng thời điểm…”. Trái tim anh thật đẹp. Anh có nhiều hoài bão: “Tôi đam mê văn chương đến mức khổ sở. Tuy nhiên, dù khổ cực nhưng nếu có một người giàu sẵn sàng đổi lấy địa vị của tôi, tôi chưa chắc đã đổi”.
Hộ vỡ mộng văn chương: “Anh phải in nhiều cuốn sách viết vội, viết bài cho thiên hạ đọc rồi quên ngay”, “Anh viết cái gì? Toàn những thứ vô vị, nhạt nhẽo, gợi rất nhạt, những tình cảm rất nông cạn, diễn đạt một số ý tưởng rất tầm thường xen lẫn trong một lối viết nhạt nhẽo và quá dễ dãi. Anh ấy chẳng mang lại điều gì mới cho văn học.” Gia đình rơi vào bi kịch của sự sụp đổ lí tưởng, bi kịch của sự đánh mất chính mình: “Anh cảm thấy đau khổ, thất vọng quá. Anh trở nên cau có, gắt gỏng. Anh giận con, giận vợ, giận ai, giận mình. .Và nhiều lần, không còn chịu nổi không khí hậm hực trong nhà, anh đang ngồi bỗng đứng phắt dậy, mắt ngấn nước, vẻ mặt tội nghiệp, vật vã bước ra đường, vừa đi vừa nuốt nước bọt. vu vơ.” “Anh lộ mặt như kẻ tha hương, một buổi chiều lặng ngồi khói hương nhớ quê hương da diết. Anh cũng nhớ một điều gì đó rất xa… những giấc mơ đẹp ngày xưa… một người rất đáng yêu không còn là em nữa.” Đối với người trí thức, sự sụp đổ của lý tưởng cũng là sự sụp đổ của tồn tại. Anh ấy còn sống, nhưng anh ấy không còn tồn tại nữa. Bi kịch là nhận thức được sự mất mát này.
3. Bi kịch “người thừa” hay bi kịch về lương tâm?
Hộ có tinh thần trách nhiệm cao đối với cây bút. “Văn chương không cần những người thợ lành nghề, theo khuôn mẫu cho sẵn. Văn chương chỉ chứa những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái chưa có. Nhưng thực ra Hồ đã tự chà đạp lên đạo đức và lương tâm của mình. Hộ rơi vào bi kịch quá lớn. “Điều đó có nghĩa là anh ta là một người đàn ông vô dụng, một phụ.” “Nó nghĩ thế và buồn, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chán chường chính mình? Còn gì đau hơn cho một người vẫn khao khát làm một điều gì đó để nâng cao giá trị cuộc đời mình, nhưng cuối cùng chẳng làm được gì, chỉ lo cho Mỗi ngày, đối mặt với một trang giấy trắng, anh tự nguyền rủa mình là một thằng khốn nạn. nghiền nát cuốn sách và tự mắng mình như một thằng khốn nạn… Khốn nạn! Khốn nạn cho hắn! Bởi vì hắn là một tên khốn nạn! Hắn là một kẻ bất lương!”
4. Bài phân tích hay nhất về nhân vật Hộ trong Đời thường của Nam Cao:
Nam Cao là nhà văn phản ánh xuất sắc những giá trị của thời đại, mỗi tác phẩm của ông đều thể hiện những đề tài thời đại một cách chi tiết và sâu sắc. Nam Cao xây dựng nhân vật trong tác phẩm rất tinh tế, nó phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Đời Thừa Thiên Huế của Nam Cao là một tác phẩm như thế, nhân vật Hộ được xây dựng sâu sắc, tinh tế trong từng câu ca dao.
Nhân vật Hộ xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là một nhà văn có lí tưởng sống cao đẹp, anh là một nhà văn chân chính, biết tiếp cận những giá trị chân chính, nhưng cuộc sống nghèo khổ đã biến anh thành một kẻ hung bạo. Trong hoàn cảnh cuộc sống khó khăn, anh bị áp bức hàng ngày vì thiếu ăn, thiếu tiền.
Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng những hình tượng đấu tranh nội tâm của nhân vật, ở đây nhân vật Hộ hiện lên là một người vui vẻ, cao thượng và có trách nhiệm với cuộc sống gia đình. Sau khi lấy Lời từ giã cõi đời, anh cảm thấy mình chịu nhiều áp lực cuộc sống hơn, giờ đây bao nhiêu vấn đề cuộc sống đã giằng xé bản chất bên trong của nhân vật trong tác phẩm.
Hồ là một nhà văn có lý tưởng sống cao đẹp nhưng vì cuộc sống đời thường mà phải gác lại những hoài bão, ước mơ, hy sinh ước mơ và cuộc đời để lo cho vợ con, cho sự nghiệp cả đời. Vì số tiền anh kiếm được từ việc viết lách lúc đó quá rẻ nên anh phải từ bỏ nó. Xung đột nội tâm thể hiện rõ trong cảnh, nó phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Cấu trúc tâm lý nhân vật trong cảnh đau lòng đã phản ánh sâu sắc hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều thể hiện giá trị riêng, mang lại chiều sâu cho con đường sáng tạo, tạo nên giá trị. Trong tác phẩm thể hiện con người phải đối mặt với cảnh nghèo đói, đói khát và bị tha hóa bởi cái ác của con người. Bao nhiêu hoài bão đã tan thành mây khói, anh là biểu hiện của một tầng lớp trung lưu nghèo, trước xã hội ghẻ lạnh cách mạng, rơi vào bi kịch cắt xẻo thân mình, mới nhận ra lỗi lầm của mình.
Sự tinh tế trong sáng tác của ông là bởi trong tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc, thể hiện những nét riêng, sâu sắc trong phong cách sáng tác, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật. Giá trị này được thể hiện sâu sắc trong nghệ thuật thể hiện hay sáng tạo của họ, giá trị này sâu sắc, có những cung bậc riêng và nó phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Nam Cao đã xây dựng nhân vật của mình với những tính cách điển hình tiêu biểu cho tầng lớp trí thức trong xã hội bằng cách phá vỡ nội tâm của nhân vật. Xã hội phản bội, xa lánh họ, con người rơi vào bi kịch muôn thuở, đói nghèo là thực trạng sâu xa của xã hội Việt Nam trước 1945.
5. Phân tích ý nghĩa nhất về nhân vật Hộ trong Đời thường của Nam Cao:
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao đề cập đến hai đề tài chính là vấn đề người nông dân và vấn đề người trí thức của xã hội cũ. Khi viết về nông dân, ông nhân cách hóa họ để phản ánh tâm tư, tình cảm của họ, nhưng viết về trí thức thì không nhất thiết phải như vậy, vì ông cũng là trí thức. biết “thâm căn cố đế” của nông dân. Mỗi bài, ông đều tự mình suy nghĩ và so sánh, có thể nói trí tuệ viết văn là thế mạnh của ông.
“Lãnh đạo” nằm trong danh sách những tác phẩm thành công của tác giả khi viết nên nhân vật “Hồ” là nhân vật chính Hồ – một trí thức nghèo sống trong xã hội cũ, cuộc đời nhân vật là một bi kịch của đời anh. trí thức muốn thoát khỏi nó và khó vượt qua nó.
Cũng giống như trong các tác phẩm phân tích bi kịch cuộc đời nhân vật như: Chí Phèo, Chị Dậu,… phân tích bi kịch là phân tích những mâu thuẫn, xung đột và tìm ra hướng giải quyết mâu thuẫn đó. nhưng kết thúc trong đau đớn, xót xa là bút pháp mà tác giả sử dụng để khắc họa nhân vật.
Cách miêu tả Hồ của Nam Cao khác với các tác giả cùng thời. Trong suy nghĩ của một số nhà văn, viết là văn vì văn, nghệ vì nghệ, nhưng nhân vật Hồ này lại khác. Và văn chương của ông phải phục vụ con người. Hồ cho rằng bản thân phải luôn trăn trở, suy nghĩ để tạo ra những tác phẩm có ích cho xã hội mà lại có giá trị. Giá trị là tác phẩm phải chứa đựng một cái gì đó vĩ đại, mạnh mẽ, đau đớn và say sưa, tôn vinh lòng thương xót, bác ái và công lý. Nó mang con người lại gần con người hơn. Nam Cao đã tạo ra nhân vật Hộ với một khát khao và hoài bão lớn lao là giành được những giải thưởng văn chương. Đó là ước mơ chứ không phải là sự nổi tiếng hàng ngày của những văn nghệ sĩ tài hoa, ước nguyện của người nghệ sĩ chân chính là khẳng định tài năng của mình, khẳng định mình sống có ích cho xã hội, làm cho cuộc đời này tỏa sáng rực rỡ.
Hộ là trụ cột của gia đình, là người mang lại niềm vui cho gia đình, nuôi sống gia đình nhưng lại trở thành gánh nặng cho gia đình, đời sống tình cảm gia đình, phải vất vả kiếm tiền. Hộ trở thành cuộc sống thêm của gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần. Anh ta đã đánh mất cả tài năng và nhân cách của mình. Đối với Hồ, bi kịch của ông là di sản của chính ông. Không có gì đau đớn hơn là chuốc lấy chính mình.
Bi kịch thứ hai không thua kém gì bi kịch thứ nhất, nó là bi kịch tiêu biểu cho người trí thức của xã hội cũ. Tình yêu là một nguyên tắc thiêng liêng của cuộc sống, nhưng nó bị chà đạp một cách tàn nhẫn. Bản thân Hồ là người trọng tình nghĩa, thể hiện qua mối quan hệ giữa Hồ và Từ. Biết bị người phụ nữ này phản bội, ruồng bỏ, Hồ đã lên tiếng thừa nhận mình là chồng và cũng nhận mình là cha của đứa bé. Không chỉ cứu sống Tú mà còn cứu cả danh dự của Tú, Hồ đã cho Tú không chỉ là mái ấm gia đình mà còn là mái ấm yêu thương. Hồ quán xuyến việc nhà, chăm sóc mẹ Tú. Còn các cháu thì “mới xa mấy ngày đã nhớ các cháu, thấy các cháu chạy lại reo hò, túm lấy quần áo”. Tình yêu gia đình là nguyên tắc của cuộc sống.
Tuy nhiên, không thể theo đuổi ước mơ, hoài bão của mình, anh rơi vào hoàn cảnh khó khăn và luôn chất chứa nỗi buồn, sự căm hận trong lòng. Tình yêu nghệ thuật của Hồ không bao giờ cạn, nó âm thầm, bướng bỉnh nhưng cũng có lúc bộc phát, đánh thẳng vào lòng tự trọng của Hồ từ mọi phía, buồn mộng mơ và căm ghét văn chương, lắng nghe người thành đạt. công việc mà bạn biết, khiến bạn chán nản và tồi tệ hơn. Và, thoát khỏi sự dằn vặt này, ra ngoài, Hồ tìm ra con đường mà có lẽ đàn ông nào cũng chọn để tự cứu mình: rượu. Anh ta nghĩ rằng nếu anh ta uống rượu, nỗi buồn và hận thù sẽ biến mất. Nhưng hóa ra không phải vậy, men rượu đã nung nấu lòng căm thù trong lòng Hồ và Hồ “bấy lâu nay, Hồ không nỡ ra đi buồn trở về, ngày thường anh đã ngủ mê, bây giờ anh vẫn còn trên đường”. Hộ đánh đập, mắng mỏ, xua đuổi anh em, thái độ của chị với vợ con bây giờ khác xưa rất nhiều. Chưa phải là độc ác nhưng cô dần xa lánh con người và nguyên tắc của mình ở đây. Sống với tình yêu của bạn. Đây là bi kịch đau lòng của người trí thức.
Qua Đời thường, Nam Cao vẽ nên bức tranh một con người thông minh, yêu nghệ thuật, say mê văn chương, sống và cống hiến hết mình cho văn chương, nhưng đó cũng chỉ là miếng cơm, manh áo. . Nhân vật Hộ phải bán rẻ nhân cách của mình và dần dần trở thành một con người sống, như một con người thừa đối với xã hội, gia đình và bản thân. Từ đó, đồng thời khẳng định niềm đam mê cống hiến suốt đời cho tình yêu nghệ thuật của các nhà thơ, nghệ sĩ đương thời, tác giả mong muốn lên án, phê phán xã hội vô nhân đạo đã cướp đi ý nghĩa của cuộc sống. sống, hủy hoại nhân cách con người