Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu kể về việc Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Sau đây là Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu chọn lọc hay nhất để các quý bạn đọc và các em học sinh có thể tham khảo.
1. Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu chọn lọc hay nhất:
Thơ Nôm là kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam và có giá trị vô cùng cao. Kho tàng này bao gồm kinh nghiệm sống, phong tục tập quán cũng như những kiến thức lịch sử về cộng đồng địa phương. Sử dụng hình thức câu thơ 6-8 điển hình, Truyện thơ nôm truyền tải sự diễn đạt cảm xúc phong phú bằng những câu văn đơn giản và giọng điệu giàu cảm xúc. Điều này mang lại cho thơ nôm một nét dân tộc độc đáo. Trong kho báu này ẩn chứa một câu chuyện kinh điển vẫn còn khắc sâu trong lòng độc giả, cùng với những suy nghĩ sâu sắc mà nó truyền tải. Đây là một đoạn trích trong tác phẩm ‘Quan âm Thị kính’ có nội dung: ‘Thị kính nuôi con cho Thị mầu’. Trong đoạn trích trên, chúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu của Thị kính khi bị buộc tội về một tội mà mình không phạm tội và bị buộc phải nuôi con cho Thị mầu. Dù rơi vào hoàn cảnh khó khăn nhưng Thị kính vẫn quyết định bảo vệ và chăm sóc mạng sống của đứa bé này như chính mạng sống của mình.
Ở một ngôi làng nọ, có một người phụ nữ tên là Thị mầu, vốn là một người hời hợt và ngu dại. Cô rất yêu chú tiểu Kính Tâm, thực ra là nàng Thị kính giả trai. Thị mầu vô tình có thai với người hầu trong nhà. Khi dân làng đưa cô ra xét xử, cô lập tức đổ lỗi cho Kính tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp Thị Kính lại phải chịu đựng sự bất công Sau khi sinh con, Thị mầu “trả” đứa bé cho Kính tâm.
‘Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
…
Trân trân rằng giá con đây mà về.’
Kính tâm là một chú tiểu đi tu suốt đêm ngày, nhưng bây giờ lại sợ hãi trước tiếng trẻ khóc. Có vẻ như vị tu sĩ thực sự đã bị cuốn vào vòng xoáy của số phận. Kính tâm bối rối và gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định. Không thể bỏ rơi đứa bé nhưng việc chấp nhận và chăm sóc đứa bé cũng không hề dễ dàng. Nếu để đứa bé đi, sẽ không thể tự an ủi mình, nhưng nếu ôm nó và chăm sóc nó, mọi thứ sẽ biến thành một ”tình yêu bất lợi”. Điều đáng tiếc là Thị mầu không hề tỏ ra thương xót, “vô liêm sỉ” và không chịu trách nhiệm với đứa trẻ do mình sinh ra. Kính tâm biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ dẫn đến những lời đàm tiếu và chỉ trích nhưng cô vẫn quyết tâm nhận nuôi đứa bé.
‘Cơ thiển kể đã khắt khe
…
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay’
Tâm hồn Kính tâm vốn xuất phát từ cõi ‘cơ thiển’ đã trở nên bồn chồn và nghiêm khắc. “Thiền” ở đây ám chỉ một trạng thái tâm trí trong đó người ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì và đã đạt đến một mức độ thanh tịnh nhất định. Nhưng giờ đây Kính tâm phải chịu oan ức dưới tay Thị mầu, kẻ đã xâm phạm danh dự của chàng. Tuy nhiên, Kính tâm coi trọng tầm quan trọng của cuộc sống và lòng hiếu thảo nên phớt lời mọi lời chỉ trích, bàn tán. Cho dù người khác có nói xấu đến đâu, Kính tâm vẫn tin rằng “hạnh phúc nằm ở việc làm những điều tốt đẹp”. Tuy nhiên, hành vi của Kính tâm cũng không tránh khỏi làm dấy lên sự nghi ngờ ở sư thầy.
‘Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Thực tế, nhìn vào hoàn cảnh của Kính tâm, chúng ta có thể hiểu và đồng cảm với số phận của anh. Nhưng đối với những người không biết sự thật chính xác, rõ ràng là đứa trẻ “không có quan hệ huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, tại sao Kính tâm lại đồng ý nhận con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ cho bản thân mình? Tuy nhiên, sư thầy cảm động trước lòng hiếu thảo của Kính tâm và ý nghĩa cao quý trong hành động của chàng. Kính tâm cho biết ngay cả việc xây dựng một tòa tháp chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mạng. Việc vị sư cụ ngưỡng mộ trái tim thánh thiện và cao thượng này chứng tỏ Kính tâm là người có lòng nhân hậu. Kính tâm bằng cả trái tim và tâm hồn, với sự tôn trọng và dịu dàng đã coi đứa bé là của mình, yêu thương và chăm sóc nó bằng cả trái tim, như một người mẹ nuôi con.
‘Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
…
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba’
Kính tâm dù biết “nuôi nhện” không phải là nuôi con của mình nhưng cô vẫn băn khoăn không biết con mình có thiếu thứ gì không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con, yêu thương và tìm mọi cách để nuôi dạy, mong đứa trẻ sẽ lớn lên thành người tốt. Cuộc sống quả nhiên là tàn khốc. Vẫn còn có tin đồn rằng việc làm này ở Kính tâm không thể đạt được quả báo. Nhưng hiện tại, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé, Kính tâm và Thị Mầu là biết sự thật. Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là điều dễ dàng nhưng khi được nghe tiếng cười trong trẻo của bé mỗi ngày, những lo lắng của Kính tâm dường như tan biến.
‘Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
…
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.’
Nhà văn Aimatov từng nói: “Tác phẩm đích thực không kết thúc ở trang cuối cùng.” Bởi ở cuối trang, tác phẩm thực sự sống động, sống động trong suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Đoạn trích ‘Thị Kính nuôi con cho Thị mầu’ được miêu tả một cách sống động ở các câu thơ lục bát là một ví dụ điển hình về số phận của người phụ nữ trong xã hội cổ xưa trước sự bất công. Từ câu chuyện cuộc đời Thị kính, tác giả đã vẽ nên bức tranh về một xã hội phong kiến hỗn loạn, đầy mâu thuẫn. Đây là lời cảnh báo cho những ai đang nghĩ đến việc tu tập và tìm kiếm con đường giác ngộ. Để chọn được con đường chân chính, chúng ta phải nỗ lực chịu đựng đau khổ và bất công, như Thị kính đã trải qua. Dù cố gắng đứng lên chống lại mọi bất công nhưng tấm lòng nhân hậu, nhân ái của Thị kính đã giúp cô vượt qua mọi khó khăn.
2. Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu chọn lọc ấn tượng nhất:
Có thể nói truyện thơ Nôm là kho tàng văn học quý giá của nhân dân Việt Nam. Kho báu này chứa đựng và lưu giữ vô số kinh nghiệm sống, phong tục, kiến thức lịch sử về cộng đồng. Thể thơ sáu tám biểu cảm, ca từ giản dị và giọng điệu nghiêm túc mang đậm bản sắc dân tộc trong lời kể của thơ. Có một số câu chuyện kinh điển vẫn còn đọng lại trong lòng độc giả bởi những suy nghĩ sâu sắc mà chúng truyền tải. Đây là trích đoạn trong bài ‘Thị kính nuôi con cho Thị mầu’. Đoạn trích trên khắc họa những tâm tình dịu dàng của Thị kính, người bị Thị mầu vu oan và bị đẩy phải nuôi con của mình, tuy nhiên vì mạng sống của một sinh linh bé nhỏ nên Thị Kính vẫn tiếp tục nuôi con.
Trong truyện, Thị mầu vô tình bị có mang với một người hầu. Khi bị trưởng thôn tra hỏi, nàng ta liền đổ lỗi cho Kính tâm.
‘Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.’
Vốn là một tu sĩ non trẻ, ngày đêm nghe kinh và cầu nguyện, nhưng giờ đây lại cảm thấy sợ hãi và giật mình khi nghe thấy tiếng “tiếng la hét” của đứa bé. Kính tâm hiện đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì “không thể” bỏ rơi đứa con của mình nhưng khi nhận đứa trẻ về chăm sóc, anh mới phát hiện ra “mối quan hệ không ổn”. Thật không ngờ khi Thị mầu lại vô liêm sỉ và không biết xấu hổ khi từ chối một đứa trẻ vốn là con của mình. Kính tâm biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ khiến cô phải hứng chịu những lời đàm tiếu tiêu cực, nhưng vì yêu trái tim bé nhỏ ấy nên cô vẫn nhất quyết nhận con nuôi.
‘Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay’
Tuy nhiên, Kính tâm bác bỏ mọi lời chỉ trích vì anh coi trọng cuộc sống ở ‘trong dạ hiếu sinh’. Dù người ta có nói gì thì “phúc vẫn là phúc”. Dù sinh ra không mắc nợ gì thì phải nhận được công lao nuôi dưỡng của mình. Tuy nhiên, hành động của Kính tâm cũng làm dấy lên nghi ngờ trong lòng vị sư cụ.
‘Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang’
Thực ra, theo quan điểm của sư cụ, sư cụ hiểu và thấy tiếc cho số phận của Kính tâm, nhưng là một người không hiểu hoàn cảnh, và là một đứa trẻ “khác huyết thống” không phải do bản thân sinh ra, tại sao Kính tâm lại nuôi con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ suốt quãng đời còn lại của mình. Tuy nhiên, sư cụ cũng rất ấn tượng trước người con cao quý và trái tim nhân hậu của Kính tâm.
‘Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Trong không gian tĩnh lặng, thanh bình của ngôi chùa linh thiêng, những tiếng hát ru con trẻ của Kính tâm vang lên, tôi cảm nhận được tình mẫu tử không chỉ ở cha mẹ đã sinh ra mình mà còn ở tấm lòng từ bi. Dù Kính tâm không phải là mẹ thật của đứa bé nhưng vẫn là một người cha mẹ hoàn hảo. Đứa trẻ lớn lên trong đủ loại điều kiện. Sau ba năm, đứa bé đã trưởng thành giống như “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” này chính là Kính Tâm. Cha mẹ nào lại không muốn con mình lớn lên có danh tiếng tốt? Kính tâm hy vọng con của mình cũng lớn lên sẽ trở thành những người thành đạt và tài năng, nối nghiệp cha ông.
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
3.1. Giá trị nội dung:
– Tác phẩm nói về Thị mầu có thai và bị làng trừng phạt nên cô đã khai nhận đó là của Kính tâm. Thị mầu sinh một đứa con và đưa nó vào chùa. Thị Kính xin sữa suốt ba năm để nuôi con. Cuối cùng, cơ thể cô suy yếu và qua đời, và viết một lá thư cho cha mẹ. Cuối cùng, mọi người phát hiện ra Kính tâm là phụ nữ và lập bàn thờ để giải oan cho Thị kính.
3.2.. Giá trị nghệ thuật:
– Nghệ thuật sáng tạo của tác phẩm ‘Thị kính nuôi con cho thị mầu’ thành công trong việc khắc họa nhân vật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và trữ tình, là một ví dụ điển hình về tâm lý con người, làm cho câu chuyện dễ dàng thấm sâu và gây được tiếng vang với người đọc.