1. Dàn ý so sánh cảm nhận về giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ chi tiết nhất:
1.1. Mở bài:
– Về Nam Cao
– Giới thiệu về Chí Phèo và hình ảnh giọt nước mắt của hắn
1.2. Thân bài:
– Nước mắt trong tác phẩm văn học:
+ Nước mắt: Sản phẩm cụ thể của tình cảm, thể hiện tình cảm của con người.
+ Tâm trạng con người khi rơi vào đỉnh điểm của cảm xúc (buồn, vui): bật khóc, òa lên.
+ Gặp nhiều nhân vật với những tính cách khác nhau đã rơi nước mắt như thế (Lão Hạc, vợ nhặt,…)
=> Nước mắt của Chí Phèo thì khác (không biết là nước mắt buồn hay vui)
– Nước mắt Chí Phèo – giọt nước mắt hạnh phúc:
+ Chí Phèo là kẻ cô độc, bị cả làng xa lánh
+ Thị Nở đến với chàng một cách bất ngờ, quan tâm chăm sóc, sưởi ấm trái tim chàng, khiến Chí cảm động.
+ Một người tưởng mình cứng cỏi trong tình yêu (con quỷ), vẫn có thể thấy “mắt ướt” vì cảm xúc => Tình yêu vô bờ bến.
=> Đây là giọt nước mắt hạnh phúc khi được quan tâm, cũng là giọt nước mắt khi lương tâm thức tỉnh.
– Giọt lệ buồn của Chí Phèo:
+ Chí Phèo bị Thị Nở từ chối tình yêu vì định kiến xã hội (dì): “Thị hai tay xoa bẹn, hếch mặt lên,… đổ hết lời dì lên người”.
+ So sánh: “Ướt” giọt lệ vui và “ướt” giọt lệ buồn.
+ Giọt nước mắt ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Trước khi gặp Thị Nở: Chàng là một yêu tinh, say khướt suốt đời – Thị Nở đến: Đã cứu rỗi linh hồn chàng, chàng lại mở lòng với xã hội.
Giờ đây, Thị Nở lại đẩy anh xuống vực thẳm bởi những chuẩn mực xã hội
Chí Phèo tìm đến rượu để quên, để lấy lại sức => Càng uống càng tỉnh, thấy “hơi mùi cháo hành” => Con người trong hắn bừng tỉnh.
Sự thật đau xót: Muốn làm người nhưng bị cự tuyệt quyền làm người: “Tôi khóc cho cạn nước mắt” => Tiếng khóc của một con người đau đớn tột cùng.
1.3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài cảm nhận về giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ hay nhất:
Đề tài người nông dân từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều nhà văn. Ngô Tất Tố đã khắc họa hoàn cảnh người nông dân bị sưu cao thuế nặng qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn”. Kim Lân đã viết về cuộc sống nghèo khổ của người nông dân trong nạn đói qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Cùng chung nguồn cảm hứng sáng tạo, Nam Cao và Tô Hoài đã tìm đến người nông dân để bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc trước số phận đáng thương của họ, điển hình là qua hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ chồng người ta”. Qua câu chuyện, mỗi nhà văn không chỉ cho ta thấy số phận bất hạnh của người nông dân mà còn cho ta thấy những phẩm chất tốt đẹp đáng quý của họ. Nam Cao, Tô Hoài đã miêu tả một cách sắc sảo giọt nước mắt trong hai tác phẩm Đó là giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ.
Nam Cao và Tô Hoài là hai nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Nam Cao tập trung vào thời kỳ trước cách mạng với hai đề tài chính là nông dân và trí thức nghèo. Còn Tô Hoài có nhiều sáng tác xuất sắc sau Cách mạng tháng Tám. Ông có số lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỷ lục trong kho tàng văn học Việt Nam. Truyện “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” đều viết về cuộc sống khổ cực của người nông dân bị áp bức. Tuy nhiên, luôn có những phẩm chất cao đẹp trong đó. Tiêu biểu cho loại người này là nhân vật Chí Phèo và A Phủ. Giữa biết bao chi tiết, hình ảnh quan trọng, hình ảnh giọt nước mắt của hai nhân vật này đã gợi cảm hứng, suy nghĩ cho người đọc.
Chúng ta cần hiểu “chi tiết nghệ thuật” là những biểu hiện cụ thể thường nhỏ nhưng có sức chứa lớn về tình cảm và tư tưởng, tạo nên sức hấp dẫn đối với người đọc. Thường có những chi tiết miêu tả thiên nhiên, những chi tiết miêu tả không gian, những chi tiết miêu tả hành động, những suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Chi tiết có vai trò quan trọng trong một tác phẩm văn học. Nó tạo nên hình tượng và thẩm mỹ cho tác phẩm. Các chi tiết cũng thấm đẫm óc sáng tạo của người nghệ sĩ, thể hiện quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, góp phần làm nổi bật chủ đề hư cấu của tác phẩm. Chi tiết còn là tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện, là bước ngoặt trong hành động của nhân vật. Như vậy, tất cả những chi tiết ấy đều là sự kỳ công, tìm tòi, sáng tạo của mỗi nhà văn. Với vai trò quan trọng như vậy, nghệ thuật chi tiết giọt nước mắt trong “Chí Phèo” và “Vợ chồng A Phủ” đã góp phần làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng, thông điệp mà mỗi nhà văn muốn gửi đến người đọc.
Đầu tiên là hình ảnh trong tác phẩm Chí Phèo. Tác phẩm kể về nhân vật Chí Phèo, một người nông dân bị bức hại đến mức tha hóa. Dưới sự tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành lương thiện đã bị tha hóa đến cùng. Nhưng rồi con người ấy đã được đánh thức bởi sự quan tâm ân cần của Thị Nở. Khi Chí Phèo đang say, Thị Nở bưng cho hắn một bát cháo hành khiến hắn vô cùng ngạc nhiên. “Anh chàng này thật tuyệt vời. Ngạc nhiên quá mắt ươn ướt”, Chí Phèo bật khóc vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được quà, ngày xưa hắn cướp giật, đe dọa người khác nhưng không ai cho hắn cái gì, bưng bát cháo hành bốc khói mà lòng chùng xuống, đây là lần đầu tiên Chí được ăn cháo hành và cũng là lần đầu tiên Chí được ai đó quan tâm, giọt nước mắt ấy thể hiện niềm vui, sự xúc động vì Chí vẫn được quan tâm, cảm động xã hội loài người còn chấp nhận hắn, đó cũng là giọt nước mắt của niềm vui, hạnh phúc vì hắn còn sống, cuộc đời còn ý nghĩa, Chí sung sướng nghĩ nếu Thị Nở chấp nhận mình thì mọi người cũng sẽ yêu thương mình, giọt nước mắt hạnh phúc của Chí Phèo đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Chí. Với giọt nước mắt ấy, có lẽ cuộc đời tôi sẽ khác. Chí sẽ trở thành người lương thiện được mọi người chấp nhận. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi, tôi muốn làm người lương thiện người”, “nếu bạn có thể làm hòa với bất cứ ai, bạn có thể làm điều đó” và mong Thị Nở mở đường cho mình. Con quỷ làng Vũ Đại đã thức tỉnh và khao khát được chuộc lỗi.
Nhưng hạnh phúc đến với Chí Phèo chưa được bao lâu thì anh bị Thị Nở từ chối. Chỉ bằng vài lời nói có vẻ gián tiếp của mụ dì ghẻ, một lần nữa đẩy Chí xuống vực sâu của sự tha hóa, bị tước đoạt quyền làm người. Sau khi bị Thị Nở từ chối, Chí Phèo “ngồi chết lặng không nói gì”. Chí Phèo muốn níu kéo Thị Nở, nhưng Thị Nở gạt tay ra, hắn đau đớn “úp mặt khóc”. Chí Phèo khóc vì bị thị Nở chối bỏ, điều đó cũng có nghĩa là Chí bị cả xã hội loài người chối bỏ. Bởi một con người xấu xa, tham lam, hận thù như cô mà Chí còn không chấp nhận thì xã hội đó sẽ không ai có thể chấp nhận được anh ta. Chí đã từng mơ mình sẽ là chiếc cầu nối đưa Mị về với trần gian nhưng giờ đây Thị đã chặt đứt chiếc cầu kì diệu ấy. Anh “khóc úp mặt” vì thỉnh thoảng lại thấy hương vị của cháo hành, hương vị của sự yêu thương, chăm sóc. Càng nghĩ về điều đó, anh càng cảm thấy đau đớn và thương hại. Anh đã khóc trong đau đớn và tuyệt vọng. Ý định làm người lương thiện của anh vừa mới bắt đầu, giờ đã bị dập tắt. Giọt nước mắt của Chí cũng thể hiện sự căm phẫn của hắn đối với xã hội bất lương lúc bấy giờ mà điển hình là qua Bá Kiến và Thị Nở. Đó cũng là sự thức tỉnh của Chí Phèo khi hắn nhận ra tấn bi kịch của mình. Anh nhận ra mình không thể làm người lương thiện được nữa. Chí nhận ra kẻ thù của mình là Bá Kiến. Chính những giọt nước mắt đau thương ấy đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong nhận thức và hành động của Chí Phèo, khiến Chí đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Viết về sự thức tỉnh ấy của Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc, nhà văn nhận ra rằng bên trong mỗi con người dường như đã tha hóa, đã mất đi sự chính trực nhưng họ vẫn sống thắp lại ánh sáng lương tâm. Nhà văn cũng dùng nó khi nói về giọt nước mắt cứu chuộc mà ông thường ca ngợi là “hòn ngọc của thế gian”. Giọt nước mắt không nguôi đó cũng đã được Nam Cao nhắc đến trong tác phẩm Người lãnh đạo qua nhà văn Hộ. Như vậy, tác phẩm của Nam Cao đã góp phần to lớn vào việc khắc họa sự thức tỉnh về phẩm giá trong mỗi con người.
Đến với nhà văn Tô Hoài trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm viết về cuộc sống khổ cực của người dân vùng cao, trong đó có A Phủ, dưới ách thống trị phong kiến ở vùng cao. A Phủ đánh quan phải nộp phạt. Một lần trong lúc chăn bò, A Phủ vô tình bắt được một con bò, nhà thống lí trói A Phủ vào cọc gần chỗ Mị (con dâu nhà thống lí trả nợ) dùng để thổi lửa. Những giọt nước mắt của A Phủ được Mị cảm nhận khi ngồi bên bếp lửa. Một lần ngồi trên đống lửa, Mị nheo mắt
chảy xuống hõm má đã ngả màu xám đen.” Đó là giọt nước mắt hiếm hoi của kẻ trơ trẽn như A Phủ, giọt nước mắt ấy tượng trưng cho sự đau đớn đến tận cùng. Đau đớn vì những sợi dây mây siết chặt, nhưng có lẽ đau đớn nhất lúc này là A Phủ nghĩ đến hoàn cảnh đáng thương của mình A Phủ khóc nhưng không nguôi. Đó là những giọt nước mắt của một con người giàu nghị lực. Những giọt nước mắt của A Phủ “lấp lánh” tượng trưng cho khát vọng sống, tự do. A Phủ là người anh hùng dám chống lại nhà thống lí Pá Tra nhưng trong hoàn cảnh này hắn đã khóc. Khát vọng sống tự do ở chàng trai sơn cước dường như trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi biến thành giọt nước mắt của A Phủ có phần giống với giọt nước mắt của Chí Phèo bởi nó thể hiện sự phẫn nộ tột độ. Trước tội ác của bọn địa chủ phong kiến, chính bọn phong kiến đã tước đoạt quyền sống của Chí Phèo, A Phủ và bao người nông dân khác.
Nhưng nếu giọt nước mắt của Chí Phèo khiến hắn rơi vào bế tắc thì giọt nước mắt của A Phủ lại tìm được sự đồng cảm. Nhà văn không để nhân vật của mình rơi vào “ngõ cụt” mà giúp họ một hướng đi khi giúp họ có những thay đổi trong tình cảm, nhận thức. Nước mắt A Phủ đã tác động đến nhận thức và cảm xúc của em. Thấy A Phủ khóc, tôi chợt nhớ “Đêm qua A Sử trói tôi, tôi phải đứng như vậy, nhiều lần tôi khóc, nước mắt chảy dài xuống cổ mà không sao lau được. Mị vô cùng thương cảm A Phủ, rằng là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ.Từ thương người, nghĩ đến hoàn cảnh của mình, rồi từ thương mình chuyển sang thương người khác.Từ đó, tôi đã có sự thay đổi trong nhận thức một cách rất quan trọng .Tôi thấy được sự bất công vô lý của xã hội,thấy sự bất công trong hoàn cảnh của A Phủ “làm sao còn ai chết” Em cũng nhận thấy sự tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến “chúng thật độc ác”. Giọt nước mắt của A Phủ đã lay động và thức tỉnh tâm hồn em, nó là tiền đề quan trọng tạo nên bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời A Phủ, cuộc đời của Mị và A Phủ, từ những nhận thức quý giá ấy Mị đã có hành động quyết liệt cứu A Phủ, tự giải thoát cho mình mà không hề tỉnh ngộ Từ những giọt nước mắt của A Phủ, tôi đã không thể hành động táo bạo và dứt khoát như thế.Hành động và cuộc sống của người nông dân miền núi vẫn là một ngõ cụt.Chi tiết “Nước mắt A Phủ” là một tiểu phẩm chi tiết nhưng mang nhiều ý nghĩa, nó góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hình ảnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi nhà văn đồng cảm với những nỗi bất hạnh của con người. Đồng thời Tô Hoài cũng tôn trọng khát vọng tự do của người nông dân. Và chỉ qua chi tiết nhỏ ấy, nhà văn cũng đã hé lộ một cuộc đời tốt đẹp của họ.
Bằng việc khắc họa những chi tiết tiêu biểu như trên, các nhà văn Nam Cao, Tô Hoài đã khẳng định tài năng của mình trong việc xây dựng những chi tiết tiêu biểu để xây dựng thành công tâm lí nhân vật, qua đó góp phần quan trọng vào quá trình phát triển nhân vật, tập trung khắc họa chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Với ý nghĩa đó, Chí Phèo của Tô Hoài – Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đã trở thành những tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam.
3. Bài cảm nhận về giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ ấn tượng nhất:
Phải chăng: “Nước mắt đàn ông không rơi từng giọt”. Ở một người đàn ông, nội tâm của họ sẽ rất khác so với một người phụ nữ. Hàng ngày họ vẫn rất mạnh mẽ, trái tim sắt đá như sông núi hùng vĩ. Nhưng đá có thể bị nước bào mòn, tâm hồn họ dù bản lĩnh hơn đàn bà cũng có lúc phải khóc, đó là giây phút họ vô tình bị kéo xuống hố sâu không đáy của nỗi đau. Cuộc đời trong cảnh tù túng không nơi nương tựa, trong tấn bi kịch tinh thần và nỗi đau thể xác, nỗi đau về thời gian và thân phận. Nhà văn Nam Cao cũng là một nhà văn nam, ông đã tạo nên nhiều nhân vật trí thức nông dân, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo với những nếm trải cay đắng của cuộc đời qua tiếng khóc đầy tội ác của xã hội. Viết về tiếng khóc ấy còn có Tô Hoài, một nhà văn già, am hiểu văn hóa vùng cao nên đã tạo dựng A – Phủ một nhân vật anh hùng, nhưng rồi lại khóc, khóc trước sự bất công của cuộc đời. Dù cùng viết về một tiếng khóc nhưng chắc chắn rằng mỗi tiếng khóc sẽ là một hoàn cảnh khác nhau, những số phận con người, những đau khổ và những cái chết được thể hiện qua hai phong cách nghệ thuật khác nhau.
Ở Nam Cao có một tính cách rất đàn ông và lạnh lùng, khi viết ông luôn cố đẩy nhân vật của mình ra xa xã rồi kéo họ về bằng một trái tim ấm áp. Nhân vật Chí Phèo cũng được sinh ra từ trái tim ấm áp và đáng yêu ấy. Ra đời năm 1936, trước Cách mạng Tháng Tám, nó là một thứ gì đó bế tắc của người nông dân trong xã hội. Điển hình là Làng Vũ Đại ngày ấy và anh Chí Phèo và sau đó là giai cấp thống trị: Bá Kiến. Nhưng Chí Phèo là trung tâm, khơi nguồn cho câu nói của Nam Cao: “Một tác phẩm thực sự có giá trị phải vượt qua mọi ranh giới và giới hạn, nó phải là tác phẩm viết cho công chúng, nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn và phấn khởi… “Chính nỗi đau đó đã khiến nhân vật Chí Phèo hiện lên một cách đầy bi kịch và đau đớn. Còn ở A Phủ là bi kịch của người con bị bọn cường hào ở miền sơn cước tiêu diệt. Bài thơ ra đời năm 1953, do sự hiểu biết và gắn bó với đồng bào các dân tộc, trong tác phẩm là cộng đồng dân tộc H-Mông, với tục bắt vợ mà các thế lực phong kiến miền núi lúc bấy giờ rất đáng buồn nhất. Thế là nhà văn Tô Hoài run. Dùng nước mắt là chi tiết tiêu biểu cho thân phận người nông dân. Khóc là khi người ta hạnh phúc đến mức không thể diễn tả thành lời, hay là vì quá phản nghịch mà đau khổ. Cả hai nhân vật đều thuộc loại tình cảm thứ hai. Vì vậy, nó đau đớn, xé lòng và có giá trị nghệ thuật cao.
Sự khác biệt giữa các tác phẩm văn học phụ thuộc vào các chi tiết nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để miêu tả hiện thực mà tác giả muốn chuyển tải. Ta đã thấy ở “Hai đứa trẻ” chi tiết chuyến tàu khuya đi qua phố huyện với đủ thứ ánh đèn và âm thanh, đã thấy ở “Vợ nhặt” bát cháo hành ấm lòng. Còn bây giờ ở đây là chi tiết giọt nước mắt, một chi tiết nghệ thuật sâu sắc về phương diện và hình thức thể hiện được hai nhà văn vắt kiệt ngôn từ để nói lên điều đặc biệt đằng sau giọt nước mắt.
Đối với Chí Phèo, cuộc đời thật cay đắng và căm phẫn. Thay vì là một đứa trẻ được sinh ra trong hơi ấm của mẹ, được ôm ấp trong vòng tay của cha, Chí Phèo là một đứa trẻ. Những đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi trong thân phận “trần như nhộng, xám xịt” đáng thương trong khu lò gạch cũ bỏ hoang. Rồi lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng. Ngoại hình và tính tình cũng thay đổi. Tưởng chừng như đã bị cướp đi cả hình hài lẫn nhân tính. Lang thang giữa đời ai cũng sợ hắn như hổ, nỗi đau ấy ngày qua ngày chỉ có thể vượt qua men rượu. Cho đến một ngày Thị Nở bước vào đời hắn như một vật lạ. Nhưng hôm nay đã khác, hôm nay Chí đã có Thị Nở là người đàn bà đầu tiên đến bên đời Chí với sự nâng niu hơn những gì Chí xứng đáng có được. Chí Phèo vẫn có cái bụng trong như suối. Những tháng ngày đau khổ ấy mà hôm nay Chí đã cố nén khóc cho thỏa nỗi lòng, để anh quên đi ngày hôm qua và hôm nay phải sống cho ước mơ của mình và món quà mà cuộc đời đã ban tặng cho anh vào lúc khó khăn nhất, đó là: Thị Nở.
Nhưng không ai ngờ rằng, như một đòn bất ngờ, Thị Nở đã bỏ Chí đi như chưa từng quen biết. Dưới sự chỉ trích của người cô, chiếc cầu cuối cùng giữa Chí và mọi người đã rơi xuống nước, bị nước cuốn trôi, gào thét như tiếng kêu phẫn uất của số phận con người. Ngay cả một người tồi tệ như Thị Nở đã bỏ rơi Chí, liệu ai có thể cứu vớt anh ta và đưa anh ta trở lại cuộc sống bình thường.
Nhưng khác với giọt nước mắt bế tắc của Chí Phèo, giọt nước mắt lăn dài trên hõm má của A Phủ lại nhận được sự đồng cảm của Mị. Thấy A Phủ khóc, Mị nhớ “Đêm qua A Sử trói ta, ta phải đứng như vậy. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng xuống cổ mà ta không lau được. Trong giá lạnh, nước mắt của A Phủ dường như ấm lắm, ấm đến mức làm tan chảy cái nắm tay đông cứng vô hồn trong lòng Mị. Từ thương mình, tôi chuyển sang thương người với một tấm lòng cảm thông rất chân thành với những người khốn khó. Với một tình yêu cuộc sống rất mãnh liệt. Giọt nước mắt trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” tuy chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng lại góp phần làm sáng bừng tấm lòng rất nhiều. Vì vậy, Tô Hoài là một nhà thơ từng trải, có lối viết rất chuyên nghiệp và giàu tư duy.
Nếu so sánh giọt nước mắt của hai nhân vật thì thực ra nó tôn vinh cái đẹp và khai phá từng ý nghĩa mới, không khập khiễng chút nào. Thứ nhất, xét về mặt tích cực thì tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhỉnh hơn một chút, do thời điểm sáng tác là yếu tố tác động, Tô Hoài sáng tác tác phẩm này năm 1953, lúc đó nhà văn đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, tin vào lý tưởng cách mạng, một điểm sáng cuối cùng để hai nhân vật kết thúc, để giọt nước mắt ấy góp phần mở ra một tương lai vô cùng tươi sáng. Nhà văn Nam Cao viết truyện ngắn Chí Phèo trước Cách mạng tháng Tám nên càng khép kín, bế tắc. Chí Phèo khóc và tự kết liễu đời mình, tức là ôm lấy nỗi đau mà không thể bước tiếp. Mặt khác, hai dòng nước mắt này có giá trị nhận thức, phản ánh hiện thực xã hội. Và qua cách thể hiện có thể thấy hai phong cách sáng tác hoàn toàn nổi bật và có nét riêng. Nam Cao sử dụng ngôn ngữ của người dân Bắc Bộ, có phần đả kích, xây dựng nhân vật rất điển hình, lạnh lùng, sắc sảo nhưng cũng đầy lòng nhân ái.
M. Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”, quả thực không bao giờ sai. Qua tiếng khóc ta thấy văn chương rất nhân văn, rất đời thường. Ngoài đời buồn thì họ khóc, nhân vật trong văn học cũng vậy, họ đau nên họ khóc. Nhưng đôi khi khóc làm họ vui và vơi đi nỗi buồn. Vì vậy, có thể xem hai cây bút hiện thực của văn học Việt Nam. Tô Hoài với “Vợ chồng A Phủ”, Nam Cao với “Chí Phèo” họ đã ám ảnh người đọc mỗi khi nhớ lại hình ảnh Chí Phèo và A Phủ khóc. Hai tác phẩm đó là một điều đáng quý, chi tiết giọt nước mắt cũng là một điều đáng quý. Và những giá trị ấy biết cách khẳng định mình, không để quy luật sinh tồn bị đào thải.