Văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 là những trang văn chương mang cảm hứng sử thi lãng mạn từ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trong nguồn cảm hứng bất tận ấy, người lính được khắc họa rõ nét trong lòng bạn đọc. Hai đoạn thơTây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu là minh chứng cho vẻ đẹp sáng ngời ấy:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Và:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Quang Dũng là nhà thơ sống một đời lính oanh liệt vì vậy mà đời lính ăn sâu vào đời thơ. Bài thơ “Tây Tiến”được sáng tác năm 1948 in trong tập thơ “Mây đầu ô”. Trong khi đó, Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu được viết trong cảm hứng của buổi chia tay lịch sử sau đại thắng Điện Biên Phủ.
Trước hết chúng ta đến với những vần thơ trong Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ gợi lên vẻ đẹp bi tráng từ ngoại hình của người lính tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá với hai cách hiểu khác nhau. Người lính Tây Tiến với dáng vẻ đầu trọc da xanh là hậu quả của những cuộc hành quân vất vả, là dấu ấn của những trận sốt rét ác khiến tóc không mọc lại được, da dẻ như tàu lá. Cách hiểu thứ hai là bộ đội cạo trọc đầu để sinh hoạt dễ dàng hơn. Thời kháng Pháp những chàng lính là anh “Vệ trọc”, “Vệ túm”. “Quân xanh màu lá” là trang phục áo lính, cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang.
Bên cạnh đó thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và tâm hồn đã làm nên khí chất trong người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ tả người lính có chút đùa vui, hóm hỉnh. Lại có thêm “Quân xanh màu lá”, tương phản với hình ảnh “dữ oai hùm” khiến những người lính Tây Tiến rất lạc quan, coi thường gian khổ. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” khiến giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Chữ “đoàn binh” cũng gợi lên được sự mạnh mẽ của “Quân đi điệp điệp trùng trùng”, gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt. Người lính Tây Tiến làm chủ tình hình, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh.
Đoạn thơ để lại dấu ấn lãng mạn về những chàng trai Hà Nội:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai chữ “mắt trừng” mang tính chất liên tưởng: luôn nhìn về phía kẻ thù với lời thề sống chết với kẻ thù. Còn đôi mắt “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức nhớ về Hà Nội với dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ họ vẫn rung độngvề vẻ đẹp của Hà Nội hay chính xác là “dáng kiều thơm”. Đó là một vẻ đẹp của tấm lòng hướng về Thủ đô, luôn hướng về Tổ quốc. Chính quê hương là sức mạnh để họ chiến đấu.
Vì thế càng khó khăn mất mát, họ càng quyết tâm:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Ra đi chiến đấu là “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, là “đầu không ngoảnh lại” nên “chẳng tiếc đời xanh”. Thật cao đẹp cho lý tưởng sống ấy của người chiến binh.
Sáu câu thơ được viết bằng bút pháp sử thi lãng mạn. Ngòi bút Quang Dũng hướng về những con người phi thường với các biện pháp nghệ thuật như: tương phản, đối lập, ẩn dụ… mang đến hình ảnh đoàn quân gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
Với Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, cuộc chia tay giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc là đề tài trong bài thơ “Việt Bắc”. Trong bài thơ Tố Hữu nhắc về những kỷ niệm với con người và thiên nhiên Việt Bắc. Trong hồi ức ấy, nhà thơ không quên nhắc đến khí thế của quân và dân ta :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Đoạn thơ miêu tả cuộc kháng chiến của dân tộc, là những ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là đoàn quân ra trận điệp trùng, là hình ảnh của cuộc chiến tranh nhân dân những đêm kháng chiến.
Trước hết đó là ấn tượng về sức mạnh chung của dân tộc ta trong hai câu thơ đầu:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Câu thơ đầu tiên rất đỗi tự hào về những con đường Việt Bắc. Hai chữ sở hữu “của ta” khẳng khái, chắc nịch khi nói về “Những đường Việt Bắc”:
Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến…
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Đó là những con đường đầy ý nghĩa tượng trưng cho cả một quá trình của kháng chiến.
Con đường đầy lửa máu ấy là một con đường “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Đọc câu thơ ta đã thấy âm hưởng hùng tráng của bài ca kháng chiến từ những từ láy “đêm đêm”, “rầm rập” cùng hình ảnh “đất rung” tạo nên bức tranh về sức mạnh Việt Nam
Hình ảnh Việt Bắc hào hùng bỗng trở nên rực sáng bởi hình ảnh của những đoàn quân ra trận:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
Sự hùng tráng, của đoàn quân được thể hiện qua điệp từ “điệp điệp”, “trùng trùng” tạo ấn tượng về sức mạnh khổng lồ của quân đội Việt Nam khi đương đầu với mọi hành động gây hấn của kẻ thù. Đoàn quân trên những con đường Việt Bắc đông đảo như trải dài khắp mọi nẻo đường Việt Bắc.
Hình ảnh đoàn quân tạo nên tầm vóc vũ trụ từ hình ảnh “ánh sao đầu súng” rất thực nhưng cũng rất lãng mạn. Dưới trời sao, đầu súng thép ánh lên lấp lánh, và cũng có thể là những ngôi sao trên mũ chiến sĩ cách. Cả đất trời đang hành quân cùng người lính ra. Nếu như khẩu súng tượng trưng cho chiến tranh, chiếc mũ là nói về người lính như dựng lên trước mắt người đọc những đoàn binh ra trận đang đi về phía tiền phương.
Trong bức tranh về sức mạnh của dân tộc ta, Tố Hữu đã khái quát thêm sức mạnh của đoàn dân công cùng quân đội ta làm nên trang sử vang dội cho dân tộc:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Câu thơ cho ta thấy sự điệp trùng ấy của đoàn quân. Mở đầu câu thơ là hình ảnh “dân công”, cuối câu thơ là hình ảnh “từng đoàn” gợi ra sự điệp trùng của những đoàn dân công. Bên cạnh đó “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” gợi cho cho sức mạnh của đoàn người gắn liền với những chặng cách mạng.
Như vậy cả hai bài thơ đều viết về thời kỳ chống Pháp và sử dụng bút pháp sử thi lãng mạn. Nhưng nếu người lính trong thơ Quang Dũng mang cái đẹp bi hùng, lãng mạn hào hoa thì Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp hướng tới số đông.
Nét riêng ở đây là, Quang Dũng viết “Tây Tiến” hình ảnh người lính hiện lên hiện thực với nhiều khó khăn gian khổ nhưng vẫn giữ chất thép vốn có của lính những cũng rất đỗi mộng mơ Hà Thành. Bài thơ “Việt Bắc” là hồn thơ trữ tình chính trị ngợi ca, biểu dương hình ảnh đoàn quân ra trận mang tầm vóc lớn lao của “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.
Tóm lại, cùng viết hình ảnh đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng của hai nhà thơ rất khác nhau nên hình ảnh người lính thời chống Pháp của hai tác phẩm vừa có điểm chung vừa có điểm khác biệt mang đến cho đọc giả những ấn tượng độc đáo.
3. Điểm cần khắc hoạ khi so sánh hình ảnh đoàn quân qua Tây Tiến và Việt Bắc:
Bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc đều là những tác phẩm tiêu biểu trong thơ ca kháng chiến chống Pháp, khắc họa hình ảnh người lính cách mạng. Tuy nhiên, mỗi bài thơ lại có những nét riêng trong việc miêu tả đoàn quân, phản ánh những góc cạnh khác nhau của cuộc kháng chiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Và:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Quang Dũng là một nhà thơ, nhà soạn nhạc tài ba và cũng chính là một người lính tham gia vào đội ngũ chiến đấu của Tổ quốc. Trong thời thanh xuân của mình, ông đã từ bỏ mọi hoài bão của tuổi trẻ để sống một đời lính đầy oanh liệt hào hùng.
Có lẽ, chính vì thế mà cái đời lính đã ăn sâu vào đời thơ của ông. “Tây Tiến” là một bài thơ được viết vào năm 1948. Với âm hưởng hào hùng, bi tráng, bài thơ đã in sâu trong tâm trí người đọc những nét đẹp sáng ngời cùng sự hy sinh quên mình của những anh hùng dân tộc.
Nói về Tây Tiến, ta không thể không điểm qua đôi chút về lịch sử và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để thấu hiểu những giá trị mà nó mang lại.
Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập vào năm 1944 tại Tuyên Quang. Lúc bấy giờ, quân ta đã dần trưởng thành hơn sau khi trải qua bao khó khăn, thử thách nơi chiến trường khắc nghiệt. Đây cũng là thời điểm hình ảnh người lính của quân đội nhân dân được nhiều tác giả khai thác. Mỗi một trang thơ đều ghi lại những nét đẹp cùng sự hi sinh to lớn của người chiến sĩ, để rồi tạo nên những minh chứng hùng hồn cho một đoạn lịch sử đáng tự hào của dân tộc.
Trong đó. Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập từ 1947 với thành phần tham gia chủ yếu là thanh thiếu niên tri thức Hà thành. Quang Dũng là một trong những người chiến sĩ được đứng trong đội ngũ quân đội nhân dân.
Trải qua bao thăng trầm của cuộc cách mạng, hơn ai hết, ông đã sống hết đời lính với Tây Tiến và chứng kiến những sự kiện lịch sử oai hùng. Có lẽ, chính bao khó khăn, thiếu thốn cùng sự tự hào về cuộc đời lính, ông đã cất lên những vần thơ rất đẹp, rất riêng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Chỉ với hai câu thơ đã giúp người đọc hình dung được sự bi tráng ẩn trong vẻ đẹp “kỳ dị” của người lính. Ở đây, ta có thể hiểu câu thơ với hai cách. Có thể người lính Tây Tiến “không mọc tóc” – “quân xanh màu lá” – đầu trọc da xanh là do cái đói cái khát hút đi thần sắc, do trận sốt rét rừng đã làm rụng tóc, da dẻ héo úa.
Cũng có thể hiểu rằng, đó là hình ảnh người lính đã cạo trọc đầu, còn “quân xanh màu lá” chính là màu xanh áo lính, màu của núi rừng. Tuy nhiên, cách hiểu đầu tiên vẫn được mọi người ưa chuộng hơn, bởi nó phần nào lột tả được những khó khăn, thử thách mà người lính phải trong trận chiến khắc nghiệt.
Bên cạnh cái bi, là cái hào hùng. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và tâm hồn, để rồi làm nổi bật sự ngang tàng cùng khí chất mạnh mẽ của người lính.
Trong cái ngang tàng ấy, dường như có những nét đùa vui thể hiện sự lạc quan, yêu đời và coi gian khổ chỉ là điều tầm thường. Nước ta xanh xao cùng đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, nhưng họ vẫn đứng vững tư thế hiên ngang, khiến cho mọi quân thù phải kinh hồn hoảng sợ. Đồng thời, việc sử dụng từ “đoàn binh” đã góp phần gợi nên sự mạnh mẽ, hùng dũng, oai phong lẫm liệt.
Và dù cho mọi khó khăn, thử thách đang cố làm nhụt chí người chiến sĩ, thì họ vẫn ngang tàn thách thức, làm chủ núi rừng và chế ngự mọi khắc nghiệt để tiến lên từ chính gian khổ. Cùng với cái bi tráng, là sự lãng mạn của những chàng thanh niên trẻ mang trong mình cái tình nồng cháy:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Dẫu khắc nghiệt, gian nan luôn cận kề, nhưng người lính ấy vẫn luôn mở to mắt nhìn thẳng về kẻ thù cùng ý chí mạnh mẽ. Bên trong cái mộng gửi vào sự nghiệp của dân tộc ấy, còn là đôi mắt tình, đôi mắt thao thức nhớ nhung quê hương – nơi có bóng dáng người thương vẫn hoài khắc khoải. Người lính ấy chỉ mới là những chàng trai trẻ, làm sao thiếu đi sự rung động của trái tim được?
Nhưng tình yêu ấy không khiến họ chùn bước, không khiến họ lo ngại rời xa, mà nó đã trở thành động lực, thành sức mạnh để vững bước tiến lên.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Một người lính đã chọn dứt áo ra đi, cũng chính là họ đã chọn “đầu không ngoảnh lại”, chọn quyết tử vì tổ quốc. Càng mất mát, càng hy sinh, càng khó khăn thì họ càng quyết tâm. Đẹp làm sao những lý tưởng cao đẹp, trọn nghĩa trọn tình của người chiến sĩ quả cảm, oanh liệt.
Qua sáu câu thơ trên, với bút pháp sử thi, cảm hứng lãng mạn kết hợp cùng việc sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Quang Dũng đã thành công khai thác hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thời chống Pháp với đầy gian khổ, mất mát và hi sinh nhưng cũng vô cùng hào hùng, bi tráng.
Đến với nghệ thuật sớm hơn Quang Dũng, Tố Hữu chính là một trong những cây bút đi đầu trung thành với lý tưởng của Đảng, là người cầm lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi một cột mốc quan trọng trong lịch sử nước nhà đi qua, ông đều có những tác phẩm riêng để ghi nhớ sự kiện quan trọng ấy.
Trong đó, Việt Bắc là bài thơ được lấy cảm hứng từ buổi chia tay với chiến khu Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Chính vì những giá trị nghệ thuật cùng vần thơ mang đậm chất trữ tình chính trị ấy, bài thơ này đã được ví là “đỉnh cao thơ của Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung”.
Trong bài thơ, Tố Hữu không chỉ tái hiện hồi ức đẹp đẽ nghĩa tình, mà còn vẽ nên một bức tranh ra trận đầy khí thế của quân và dân ta:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Đoạn thơ đã giúp người đọc hình dung ra những cuộc hành quân gian khổ mà hào hùng khi tập trung miêu tả cuộc thánh chiến của dân tộc ta. Đó là sự khẳng định về sức mạnh đoàn kết của dân tộc, là sự tái hiện hình ảnh những đoàn quân oai hùng, là bức tranh vẽ nên khung ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh gắn liền với hình ảnh những đoàn dân công, đoàn xe cơ giới làm bừng sáng cả những đêm kháng chiến, bùng sáng cả ước mơ, hi vọng mà cả dân tộc cùng thắp lên trong đêm đen của dân tộc.
Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào của mình với giọng thơ khẳng khái, hùng hồn. Con đường ấy đã mở ra chiến thắng của dân tộc, là con đường ghi lại mọi cuộc chiến khắc nghiệt, cũng là con đường tượng trưng cho sự trưởng thành, phát triển của kháng chiến và cách mạng. Và chính con đường ấy, đã tạo thành con đường chiến thắng trong Việt Bắc.
Có lẽ vì thế mà sức mạnh của dân tộc ta gắn liền với con đường chiến thắng “đêm đêm rầm rập như là đất rung” này. Sang hai câu tiếp theo, ta như hình dung khung cảnh Việt Bắc rực sáng, hùng vĩ trong những năm tháng kháng chiến bởi hình ảnh đoàn quân ra trận.
Đoàn binh hành quân mà như cả đất trời đang cùng người lính ra trận. Nếu như nói khẩu súng là ý chí đánh giặc của người lính, thì chiếc mũ xuất hiện trong thơ lại là hình ảnh của người lính với tầm vóc vươn tới sao trời. Từ đó, trước mắt người đọc như hiện lên vẻ đẹp rất hào hùng của đoàn binh ra trận.
Bên cạnh đó, không thể thiếu đi bức tranh tái hiện sức mạnh của đoàn dân công – những người đã kề vai sát cánh, cùng bộ đội viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Câu thơ như gợi ra một sự điệp trùng vô tận của đoàn dân công, dẫu cho tác giả không dùng bất cứ từ “điệp trùng” nào. Cùng với đó, hình tượng bàn chân đã góp phần biểu tượng cho sức mạnh của con người gắn liền với chặng đường đấu tranh oai hùng.
Tố Hữu đã thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát mang âm điệu hùng tráng, kết hợp với chất sử thi đầy lãng mạn. Cùng với đó, việc sử dụng phép tương phản, đối lập, điệp từ… đã giúp đoạn thơ thêm phần ấn tượng khi tái hiện một cách sâu sắc không khí kháng chiến khắc nghiệt mà vẻ vang của dân tộc. Dẫu đã đọc xong bài thơ, nhưng âm điệu hào hùng cùng không khí xuất trận ấy vẫn còn vang vọng mãi nơi tâm trí ta.
Cả hai bài thơ đều được hai tác giả viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để tái hiện hình ảnh đoàn quân trên con đường cách mạng. Tuy nhiên, cảm hứng của mỗi người đều có sự khác nhau khi Tây Tiến hiện lên hình ảnh người lính rất hiện thực mà cũng rất đỗi mộng mơ, còn Việt Bắc lại mô tả người lính với hình ảnh thiên về sự bay bổng, tự hào.