1. Dàn ý so sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà ngắn gọn:
Mở bài:
Giới thiệu, dẫn dắt vào yêu cầu của đề bài: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà hay nhất
Thân bài:
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà
* Vài nét về hình ảnh con sông Đà
– Hình ảnh sông Đà thật hung dữ nhưng không kém phần trữ tình.
– Hình ảnh sông Đà là nền để người lái đò xuất hiện.
* Nhân vật người lái đò sông Đà
Ông lái đò:
– Là người anh hùng vùng sông nước.
– Là nghệ sĩ tài hoa.
-> Ông lái đò là “tay lái đò tài hoa”.
2. Nhân vật Huấn Cao
– Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là con người tài hoa, hiên ngang bất khuất với “thiên lương” trong sáng.
– Vẻ đẹp của Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có cảm hóa mãnh liệt với con người có tấm lòng “biệt liên tài”.
* Nét chung giữa Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà:
– Đều là những con người tài hoa, nghệ sĩ.
– Tác giả sử dụng ngòi bút tài hoa, uyên bác, vận dụng tri thức nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật trong miêu tả và biểu hiện.
– Ngôn từ hết sức phong phú, tinh lọc, độc đáo kết hợp với nhạc điệu trầm bổng, nhịp nhàng. Các phép tu từ được phối hợp vô cùng điêu luyện.
* Khác biệt:
– Chữ người tử tù lag cái đẹp của tài hoa, khí phách của thiên lương, và phủ nhận thực tại của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng năm 1945. Người lái đò sông Đà ca ngợi người lái đò sông Đà, với niềm yêu mến thiết tha về thiên nhiên đất nước, về cuộc sống mới, con người mới.
+ Huấn Cao là con người của lịch sử, của quá khứ, nay chỉ còn “vang bóng một thời’’; ông lái đò là con người của hôm nay, của hiện tại.
+ Huấn Cao là người siêu phàm ; ông lái đò là người bình thường
+ Huấn Cao đối lập với xã hội, trở thành kẻ tử tù trong xã hội bất công; Người lái đò là người lao động đang ngày đêm xây dựng quê hương, đất nước.
– Về cảm hứng thẩm mĩ:
+ Qua nhân vật Huấn Cao: nói về những con người kiệt xuất với quá khứ “vang bóng một thời’’
+ Qua nhân vật ông lái đò: ca ngợi tài hoa của người nghệ sĩ ở nhân dân đại chúng trong lao động và chiến đấu.
– Về cách tiếp cận con người:
+ Trong Chữ người tử tù: là “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”, cái đẹp và cảm giác mới lạ.
+ Trong Người lái đò sông Đà: ca ngợi con người lao động, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
Kết luận:
Nêu cảm nhận cá nhân về vấn đề đề bài yêu cầu phân tích: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà hay nhất
2. Dàn ý so sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà chi tiết:
1. Hoàn cảnh
* Điểm chung
– Hai nhân vật phải đối mặt với môi trường sống nguy hiểm, đầy thử thách.
– Môi trường là cơ hội để họ bộc lộ trọn vẹn vẻ đẹp độc đáo trong tính cách, tâm hồn, khả năng của họ.
* Điểm riêng
Huấn Cao
+ Sống dưới chế độ phong kiến suy tàn, xấu xa, đen tối.
+ Vì chống lại triều đình mà Huấn Cao đã bị xử án tử hình, bị giam tù để chờ ngày chịu án chém. Những ngày cuối cùng của cuộc đời tử tù, sự tồn tại của thiên lương hay cái đẹp vẫn sáng nhất. Do đó, Huấn Cao luôn chuẩn bị tâm thế trước cạm bẫy xấu xa của kẻ tiểu nhân.
Ông lái đò
+ Môi trường nguy hiểm: Con sông Đà độc dữ, hung bạo như kẻ thù số một.
+ Công việc dễ tổn thọ đầy những hiểm nguy, buộc người lái đò phải luôn mắt, luôn tay.
2. Đặc điểm:
Tài năng phi phàm, xuất chúng:
Huấn Cao:
+ Tài năng trong viết chữ – đòi hỏi sự uyên bác cùng một tâm hồn phóng khoáng.
+ Tài viết chữ: Nét chữ tươi tắn, vuông vắn, được viết nhanh và đẹp. Hồn chữ là hoài bão tung hoành của một con người. Chữ Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng đến kẻ vô danh tiểu tốt cũng ngưỡng mộ. Chữ Huấn Cao là vật báu ở đời, là ao ước của những ai am hiểu về chữ thánh hiền và nhận thức được giá trị của cái đẹp. Chữ của Huấn Cao lay động, chinh phục lòng người.
Ông lái đò
Tài năng biểu lộ trong lao động với công việc bình thường: lái đò
+ Tay lái ra hoa: thể hiện ở động tác chèo lái chứa đựng vẻ đẹp đời thường, giản dị nhưng vô cùng độc đáo.
+ Linh hoạt trong động tác để ứng phó những đòn đánh, thế tấn công của dòng sông, có khả năng quân sự tuyệt vời.
Ông lái đò đứng trên con thuyền với mái chèo, một mình đơn độc. Đá sông Đà hình thành những cửa sinh, cửa tử khôn lường, có những thế võ và sức mạnh quật ngã những tay lái ít kinh nghiệm. Mái chèo tuy chỉ là một công cụ bình thường nhưng lại như một cây đũa thần khi ở trong tay ông lái đò, giúp ông hoá giải sức mạnh của mọi đòn tấn công.
Ông lái đò đưa chiếc thuyền vượt qua thạch trận, đè sấn lên sóng thác, chặt đôi sóng. Con thuyền dưới sự điều khiển của người lái đò lúc tiến lúc thoái, lúc công lúc thủ như một mũi tên tre, vừa bơi, vừa tự động lượn được.
Qua mỗi trùng vi thạch trận, người lái đò lại đổi tay lái và chiến thuật. Trong trận chiến trên sông, cũng có lúc người lái đò bị thương bởi sóng đánh vào chỗ hiểm. Nhưng nhờ sự linh hoạt của động tác và tài biến hoá của chiến thuật đã khiến ải nước phải tiu nghỉu mặt xanh lè thất vọng. Con thuyền của người lái đò bỏ lại phía sau tiếng gieo hò của sóng thác.
Khí phách bất khuất, hiên ngang trước những thử thách, hiểm nguy không chịu đầu hàng, sẵn sàng đối mặt với một tâm thế ung dung nhất có thể. Thậm chí, người lái đò coi những hiểm nguy như niềm sinh thú trong cuộc sống.
* Điểm chung: Coi hiểm nguy như niềm sinh thú.
– Huấn Cao: Quản ngục vì cảm mến Huấn Cao nên đã biệt đãi người tử tù. Hằng ngày, quản ngục sai người mang rượu thịt cho người tử tù. Do chưa hiểu rõ về con người quản ngục nên Huấn Cao, coi thường không hề né tránh mà đón nhận như một thú bình sinh.
– Ông lái đò: không thích chèo đò ở quãng sông bằng phẳng và coi ghềnh thác hiểm nguy chính là sự yêu thương đậm đà con sông dành cho nhà đò.
* Điểm riêng: Tình thế phải đối mặt
– Huấn Cao: tử hình, chốn ngục tù với những trò tiểu nhân, với quyền lực xấu xa có thể đến bất cứ lúc nào. Đối mặt với hoàn cảnh ấy, Huấn Cao luôn ung dung, bình thản, tự tại, tự do. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực và ngay cả cái chết trong ông dù chỉ một thoáng phân vân. Trong khi viên quản ngục tái nhợt đi, thầy thơ lại hớt hải khi nghe về thời gian tử hình thì Huấn Cao không bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của Huấn Cao chỉ là có nên cho chữ quản ngục.
– Ông lái đò: những trận thuỷ chiến hiểm nguy luôn thường trực với những người lao động trên sông nước. Cuộc sống của người lái đò là hằng ngày đối mặt với thiên nhiên để giành sự sống. Con sông Đà hung bạo, độc dữ như một kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò suốt đời với nghề chèo đò, cưỡi trên thác sông Đà như cưỡi hổ với tư thế hiên ngang không đầu hàng, lùi bước, luôn tỉnh táo, bình tĩnh để chỉ huy con thuyền vượt sóng thác.
Huấn Cao
Không dùng cái tài để mưu lợi bởi ông với ông cái quý của chữ nằm ở mặt tinh thần nên ông chỉ cho chữ những người tri âm hiểu được tấm lòng của ông.
Huấn Cao quyết định cho chữ viên quản ngục bởi nhận ra một tấm lòng thiên lương trong sáng ở quản ngục. Huấn Cao trân trọng người quản ngục trong cách xưng hô, lựa chọn thời gian, không gian viết chữ. Tấm lòng, nhân cách của Huấn Cao lay động đến tình cảm của viên quan coi ngục, khiến viên quản ngục nghẹn ngào và cúi đầu xin bái lĩnh.
Ông lái đò
– Gắn bó với con sông Đà, coi sông Đà như một kì phùng địch thủ cũng đồng thời, con sông Đà là một người tri kỉ tâm giao.
– Tấm lòng đối với quê hương đất nước
+ Quá khứ: Khi những con đò bỏ vắng cùng với quy ước ngầm của những người lái đò chính là tấm lòng của người lao động với kháng chiến.
+ Hiện tại: Khi đất nước dựng xây, ông lái đò tự hào kể về việc được chở một đoàn chuyên gia đi khảo sát địa hình, chuẩn bị xây dựng nhà máy thuỷ điện, là một người tự hào khi được đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
3. Đánh giá chung
Cả hai nhân vật được xây dựng bằng nghệ thuật lí tưởng hoá, xuất phát từ cái nhìn độc đáo về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: Nhìn con người ở phương diệnnghệ sĩ để làm nổi bật những vẻ đẹp phi thường của các nhân vật.
3. So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà ngắn gọn:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Nếu như trước CMT8 năm 1945, với Nguyễn Tuân cái đẹp là những gì trong quá khứ ở bậc cao nhân tài hoa nhưng sau cách mạng với ông cái đẹp gắn liền với cuộc sống dung dị. Thông qua nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự xê dịch trong nghệ thuật sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
“Chữ Người Tử Tù” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân trích ra từ tập “Vang bóng một thời” về những con người tài hoa một thời. Nhân vật Huấn Cao mang vẻ đẹp của một người nghệ sĩ với khả năng viết chữ thư pháp vang danh nức tiếng gần xa. Ngay cả Viên quản ngục của tại huyện nhỏ cũng biết: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm…chữ ông Huấn Cao…là có một vật báu ở trên đời”. Vì thế sở nguyện của quản ngục là sẽ được treo một đôi câu đối do ông Huấn Cao viết để treo trong nhà.
Huấn Cao có tài viết chữ đẹp cùng với thiên lương trong sáng, không ép mình vì tiền hay vì quyền. Ông cho chữ người biết trân quý cái đẹp nên Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho người bạn tri kỉ. Lúc đầu, Huấn Cao khinh bạc viên quản ngục vì cho rằng hắn có âm mưu đen tối rồi từ từ Huấn Cao mới nhận ra tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục và viên thơ lại. Họ là người biết yêu cái đẹp và để không phụ lòng Huấn Cao đã cho chữ ngay trong nhà lao với khung cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nhân vật Huấn Cao đẹp ở tài năng, ở cái tâm và ý chí bất khuất của người quân tử. Ở Huấn Cao có khí phách của vị anh hùng. Thông qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Tuân đã bộc lộ niềm tin vào những cái đẹp, cao quý ngay cả ở những nơi tối tăm vẫn tỏa sáng.
Nếu như Huấn Cao là anh tài xuất chúng trong hoàn cảnh có một không hai thì ông lái đò lại có chút bình thường, dung dị hơn. Trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân ông lái đò hết sức chân thật, là người có ngoại hình đặc biệt được miêu tả hai tay “lêu nghêu”, giọng nói thì “ào ào như tiếng nước trước mặt gềnh”, chân “khuỳnh khuỳnh”, đôi mắt thì “vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”…Với đặc điểm như thế phù hợp với lao động trên vùng sông nước.
Ông lái đò là một người có tài trí với phong thái ung dung có chút nghệ sĩ, là người làm nghề biết tường tận những con sông và tính nết của nó. Ông nhớ và hiểu rõ những luồng nước và những con thác hiểm chở cùng những trận đồ binh pháp của thần đá, thần sông. Ông cũng hiểu mọi quy luật phục kích của vùng nước hiểm trở. Ông thậm chí còn chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình.
Nguyễn Tuân khắc họa ông lái đò như một vị tướng hiên ngang trước muôn trùng sóng nước của dòng sông Đà. Ông là người dũng cảm biết chịu đựng cái đau của thể xác do chiến đấu với sóng to gió lớn để chiến thắng với những động tác chuẩn xác. Người lái đò như một nghệ sĩ thực thụ chứ còn là là một người lái đò bình thường.
Cả hai nhân vật là Huấn Cao và người lão lái đò đều được xây dựng bằng những hình ảnh lý tưởng hóa từ cái nhìn độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà văn đặt hai nhân vật vào những hoàn cảnh đầy thử thách để giúp phẩm chất đáng quý của họ được.
4. So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà hay nhất:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “ Dòng chữ cuối cùng” đăng trên tạp chí “Tao đàn” số 29 vào năm 1938, sau đó đã được in trong tập “ Vang bóng một thời” và được đổi tên thành “ Chữ người tử tù”.
Trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân tập trung ca ngợi cái đẹp, cái tài, cái thiên lương. Nhân vật trung tâm mà tác giả tập trung khắc họa đó là Huấn Cao – một tử tù của triều đình nhưng đặc biệt nổi tiếng khắp vùng với biệt tài viết chữ. Đó là một con người trọng nghĩa khí, là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Không chỉ có nhân vật Huấn Cao mà tấm lòng trong sáng, biết thưởng thức và giữ gìn cái đẹp còn được thể ở nhân vật thầy thơ lại và viên quản ngục. Đặc biệt, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân coi là “ một thanh âm trong trẻo chen vào một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.”
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân thường tìm cái đẹp trong quá khứ thì sau Cách mạng tháng Tám ông say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông thời kì này là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”.
“Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo phong phú. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc” qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân – một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “Chiếc ấm đất”, “Chén trà sương”… Và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao – nhân vật chính trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Huấn Cao là con người có tài năng khác thường. Nét tài hoa này trước hết là tài viết chữ đẹp. Đó là tài viết chữ Hán- thứ chữ tượng hình- đã được người xưa nâng lên tầm nghệ thuật thư pháp.Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao không được thể hiện qua việc miêu tả trực tiếp của tác giả mà thông qua sự nhận xét, đánh giá và thái độ của một nhân vật khác trong truyện là viên quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Viên quản ngục sẵn sàng chịu nhục, bất chấp nguy hiểm để đạt được mong ước bấy lâu là “có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn cao viết”. Điều đó có nghĩa là nhân vật này đã đặt chữ ông Huấn cao hơn cả danh dự và tính mạng của mình. Đây là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Một mặt nó làm cho nhân vật hiện lên khách quan, tránh được mọi sự gò ép, áp đặt. Mặt khác nó cũng có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, tôn cái tài, cái đẹp, cùng những phẩm chất đáng quí của Huấn Cao lên nhiều lần. Và như vậy người đọc có cảm giác tại năng của nhân vật Huấn Cao đã đạt đến độ siêu phàm, hiếm có, sống mãi trong sự tôn thờ, ngưỡng mộ của người đời. Điều này cũng phù hợp với quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng thật đáng ca ngợi. Ông là con người tài, tâm vẹn toàn. Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông đã dám chống lại triều đình mà ông căm ghét để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la. Ông Huấn thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Ông Huấn rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh chống lại triều đình mục nát, giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công, ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém.
Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có.
Trong những ngày chờ thi hành án, mặc dù “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái” và lãnh đạm, không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục. Mặc dù ở trong tù, ông vẫn “thản nhiên nhận rượu, thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội. Ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Thiên lương của Huấn Cao cũng thật trong sáng, cao đẹp. “Tính ông vốn khoảnh, không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”, vì ông không sợ quyền uy, không ham vàng ngọc. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Do vậy khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn Cao không những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn cao được thể hiện rõ nét trong cảnh Huấn Cao cho chữ . Đó quả là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Người cho chữ là tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. Huấn Cao đang dồn hết tài năng, tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Viết chữ rất đẹp nhưng cả đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân rồi phải vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Vì theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức được cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải, đã xóa tan bóng tối hắc ám của cái ác, cái xấu. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để mang ánh sáng của cái đẹp xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm”. Và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng, sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng về thẩm mĩ trong văn học. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
Quản ngục là một nhân vật phụ trong tác phẩm Chữ người tử tù. Nhưng nhân vật này cũng góp phần không nhỏ làm nên giá trị độc đáo của thiên truyện. Viên quản ngục không có cái tài hoa của một nghệ sĩ nhưng lại có tâm hồn nghệ sĩ đó là yêu cái đẹp và trân trọng người tài.
Hai chữ quản ngục đã phần nào gợi lên đầy đủ nghề nghiệp về nhân vật đó là cai tù, nghề đại diện cho quyền lực phong kiến, đối lập với những con người tài hoa, khí phách như Huấn Cao, đối lập với cái đẹp. Nghề nghiệp ấy cũng gợi lên một môi trường của gông cùm, xiềng xích, tội ác. Nhân vật ấy hằng ngày phải chứng kiến bao điều tàn nhẫn, lọc lừa, ăn đời ở kiếp với bọn tiểu nhân… Cảnh sống ấy dễ làm cho con người bị chai sạn, dễ bị đẩy vào bùn nhơ của tội lỗi. Nhưng quản ngục vẫn giữ được vẻ đẹp nhân cách đáng quý. Cách ví von của Nguyễn Tuân “Đó là một thanh âm trong trẻo chen giữa vào bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái cao khiết giữa một đống cặn bã…” thể hiện sự nhìn nhận, khám phá, đề cao con người mang vẻ đẹp thiên lương nghệ sĩ.
Để làm nổi bật thanh âm trong trẻo, cái cao khiết của viên quản ngục, nhà văn Nguyễn Tuân đã đi vào thể hiện nhân vật quản ngục là con người bị ném vào môi trường cặn bã nhưng vẫn giữ được thiên lương. Điều đó bộc lộ qua thái độ và cách ứng xử của viên quản ngục đối với sáu người tử tù đặc biệt là đối với Huấn Cao. Khi nhận được phiến trát, quản ngục hỏi thầy thơ lại: “Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh rất đẹp đó không?” Câu hỏi là sự thăm dò kín đáo, thận trọng nhưng cũng chính là bộc lộ sự ngưỡng mộ, khâm phục, kính nể của quản ngục đối với tài hoa, danh tiếng và khí phách của Huấn Cao. Khi biết mình nắm trong tay sinh mệnh của Huấn Cao, quản ngục đã phải trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng. Ông ngồi đó với khuôn mặt tư lự và suy nghĩ. Quản ngục hiểu rằng, ông là người hành pháp phải làm việc theo bổn phận và chức trách mà chính quyền giao cho. Ông băn khoăn, trăn trở không biết phải đối xử với Huấn Cao như thế nào. Bởi đó là một con người mà từ lâu quản ngục đã mến mộ. Nguyễn Tuân đã dành những trang văn trang trọng, nên thơ miêu tả khung cảnh đêm tối khi quản ngục suy ngẫm: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không…nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”.
Vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục được Nguyễn Tuân tô đậm khi nhà văn miêu tả thái độ khác thường của quản ngục lúc tiếp đón sáu người tử tù. Quản ngục đã nhìn Huấn Cao và các bạn tù của ông bằng cặp mắt hiền lành và lòng kiêng nể. Cái nhìn ấy, tấm lòng ấy đã ẩn chứa một thái “độ biệt nhỡn liên tài”. Chính thái độ kiêng nể của quản ngục đã làm cho bọn lính lấy làm lạ, nhắc quản ngục: “Xin thầy để tâm cho…”. Quản ngục đã trả lời với bọn lính: “ Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Như vậy, Nguyễn Tuân đã khai thác yếu tố tương phản, đối lập giữa một bên là bọn lính áp giải hung hăng, với một bên là ánh mắt hiền lành của viên quản ngục để làm nổi bật về viên quản ngục: quản ngục tuy là đại diện cho quyền lực phong kiến nhưng ông không phải là hung đồ với bàn tay vấy máu. Ngược lại sống giữa bùn nhơ nhưng ông không bị hoen ố, không bị vấy bẩn mà thực sự là cái cao khiết giữa một đống cặn bã.
Xây dựng nhân vật viên quản ngục, nhà văn không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhân cách mà còn khám phá và thể hiện vẻ đẹp của một con người có tâm hồn của một người nghệ sĩ. Theo cách giới thiệu của nhà văn, viên quản ngục là một nhà nho, biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền và có một khát vọng cháy lòng là xin được con chữ Huấn Cao, coi đó là vật báu. Nghĩa là đằng sau cái con người công cụ của bộ máy trấn áp quyền lực phong kiến, nhân vật viên quản ngục còn là một con người có tâm hồn nghệ sĩ, trân trọng cái đẹp, khao khát thưởng thức cái đẹp.
Từ khi Huấn Cao trở thành người tù nơi trại giam của mình, viên quản ngục khổ tâm nhất đó là có được Huấn Cao ở trong tay mà không biết làm thế nào để tiếp cận được Huấn Cao.Quản ngục luôn tư lự, đăm chiêu, nghĩ ngợi tìm cách xin chữ Huấn Cao cho bằng được. Vì chữ Huấn Cao là báu vật trên đời, nếu không xin được thì quản ngục sẽ ân hận suốt đời. Miêu tả chân dung quản ngục lúc này giọng văn Nguyễn Tuân trở nên chậm rãi, trang trọng: Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.” Một hôm quản ngục mở khóa cửa buồng kín, tỏ ý biệt đãi Huấn Cao và bị Huấn Cao thể hiện thái độ khinh bạc nhưng quản ngục không hề trả thù. Ngược lại ông còn “Xin lĩnh ý” rất từ tốn và khiêm nhường. Có lẽ, ông đã tự ý thức được khoảng cách xa vời giữa người tử tù Huấn Cao với mình và ông hiểu được để có cái đẹp phải tự nguyện chứ không phải là cưỡng bức bằng những mánh khóe tầm thường.
Cảnh cho chữ là nơi kết đọng vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ của quản ngục. Khi Huấn Cao viết xong một chữ “viên quản ngục lại vội khúm núm”. Sự khúm núm ấy không phải là nỗi sợ sệt tầm thường mà là cảm kích tột cùng trước một nhân cách lớn, tài năng lớn. Khi nghe những lời khuyên chân thành của Huấn Cao, quản ngục đã cảm động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây không phải là cái cúi đầu đớn hèn, nhục nhã mà cái cúi đầu này khiến quản ngục trở nên lớn lao, cao cả. Bởi cúi đầu trước cái đẹp thì đó cũng là hành động đẹp của một con người có nhân cách cao đẹp. Phải chăng cái cúi đầu ấy như cái cúi đầu của Cao Bá Quát thuở nào: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Bên cạnh cái cúi lạy cao cả đó là giọt nước mắt của tâm hồn nghệ sĩ biết yêu, biết trân trọng đến xót xa ngậm ngùi, nuối tiếc cho cái đẹp. Thái độ nhã nhặn và tinh thần phục dịch tận tụy Huấn Cao của viên quản ngục là biểu hiện một thái độ tôn trọng, thành kính trước một nhân cách đẹp. Luôn hướng về cái đẹp, chăm sóc cái đẹp cũng là hành vi trọng nghĩa, một phẩm chất trong sáng cao quý hiếm có của nhân vật này. Yêu cái đẹp đến mức dám phạm đến phép nước, dám bất chấp nguy hiểm là một tâm hồn đẹp đẽ hiếm thấy. Nhân vật viên quản ngục xứng đáng được nêu gương ,ca ngợi.
Làm nghề quản ngục, môi trường làm việc là nhà tù, đối tượng tiếp xúc hằng ngày là tù nhân, tội phạm, nhưng với sự hòa quyện giữa nhân cách cao đẹp và tâm hồn người nghệ sĩ, nhân vật viên quản ngục có thể được ví như một bông sen vươn dậy từ bùn lầy “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trong một đời cầm bút đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn cảm kích, ngợi ca những con người tài hoa nghệ sĩ trong bất cứ nghề gì và hình tượng viên quản ngục là một nhân vật như thế.
Người lái đò sông Đà hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Trong cuộc chiến đấu với thác dữ, người lái đò thực sự là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai“. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng “tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.”
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở nhân vật người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.” Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có trong trang văn của Nguyễn Tuân.
“Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng tám. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua nhân vật người lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với nhân dân, đất nước .
Nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù là những nhân vật lãng mạn. Với những nhân vật này, tác giả đưa người đọc trở về với một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã đặt các nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao và tâm hồn nghệ sĩ của viên quản ngục còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp, cái cao cả với cái phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ…). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người) với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm, cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong thái của người cho chữ (đường hoàng, đĩnh đạc) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm, yếu đuối)…
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” giàu chất tạo hình và mang màu sắc trang trọng, cổ kính. Ông sử dụng nhiều từ Hán – Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một “thời vang bóng” ở hình tượng Huấn Cao và viên quản ngục.
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là nhân vật hiện thực. Đây là hình ảnh của con người trong chiến đấu, lao động đời thường, đại diện cho những người vô danh, thầm lặng, có mặt trên mọi miền của Tổ quốc. Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người lái đò khác nơi thượng nguồn sông Đà. Đời sống tâm hồn của người lái đò giản dị: không nói nhiều về chiến công; dù đi đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường quê hương xứ sở.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa; kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc. Nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo. Sử dụng kết hợp các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng, vận dụng tri thức của liên ngành, đa ngành góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, tác phẩm văn chương muốn được người đọc đón nhận một cách nồng nhiệt và sống mãi với thời gian thì nhà văn phải không ngừng sáng tạo. Nam Cao đã từng nói rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa). Trong quá sáng tác, các nhà văn chân chính bằng tài năng và tâm huyết của mình đã không ngừng nỗ lực và sáng tạo để cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Nhân loại đã từng ngưỡng mộ và tôn vinh những tài năng lỗi lạc như: A.X. Puskin , R. Ta- Go, A.P. Sê- Khốp, V. Huy- Gô…với những tác phẩm xuất sắc họ để lại cho muôn đời. Nhận thức được sự sáng tạo trong quá trình sáng tác là một yêu cầu tất yếu của văn chương, các nhà văn Việt Nam trong đó có Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, khám phá và đã tạo được cho mình phong cách riêng cùng với những tác phẩm có giá trị.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, nghệ sĩ lớn, suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn. Ông thể hiện sự bất mãn, bất lực trước hiện thực bằng cách chỉ tin vào cái đẹp trong quá khứ, về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Sau Cách mạng Tám Nguyễn Tuân đã nhanh chóng trở thành nhà văn cách mạng. Tác phẩm của Nguyễn Tuân thời kì này được khơi nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân nên mang đậm chất hiện thực. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của nhà văn được phát huy mạnh mẽ, quan niệm về cái đẹp cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Ông quan niệm cái đẹp không ở đâu xa mà cái đẹp ở ngay trong hiện thực cuộc sống, trong tâm hồn của những người lao động bình dị đang ngày đêm sản xuất, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ chính là những người nghệ sĩ , những anh hùng vô danh thầm lặng rất đáng được ca ngợi.
Qua hình tượng ông lái đò và Huấn Cao, phong cách của Nguyễn Tuân luôn ổn định trong việc tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tuy nhiên, nếu trước cách mạng nhà văn tìm thấy vẻ đẹp ở lớp người đặc tuyển, chỉ còn là một thời vang bóng thì sau cách mạng, tác giả trở về với nhân dân đại chúng, hiện hữu trong cuộc sống cần lao bình dị đời thường.