Soạn bài Các thao tác nghị luận ngắn gọn nhất (Soạn Văn 10)

Soạn bài Các thao tác nghị luận ngắn gọn nhất (Soạn Văn 10)
Bạn đang xem: Soạn bài Các thao tác nghị luận ngắn gọn nhất (Soạn Văn 10) tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Đây là bài viết về Soạn bài các thao tác lập luận mới nhất. Mời các bạn tham khảo để chuẩn bị cho bài học này được tốt hơn trước khi đến lớp. Chúc các bạn gặt hái được nhiều kiến thức hay và thú vị.

1. Tóm tắt nội dung bài học:

Thao tác:Thao tác là chỉ việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kỹ thuật nhất định.

Thao tác nghị luận:

+ Thao tác sử dụng trong văn nghị luận, khi viết bài văn nghị luận.

+ Đó là phương pháp tư duy trừu tượng.

+ Để triển khai một vấn đề nhằm thuyết phục người đọc người nghe, cần sử dụng các thao tác nghị luận phù hợp

2. Một số thao tác nghị luận cụ thể:

* Ôn lại các thao tác phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp

a) Tổng hợp là kết hợp các phần (bộ phận), các mặt (phương diện), các nhân tố của vấn đề cần bà luận thành một chỉnh thể thống nhất để xem xét.

Phân tích là chia nhỏ vấn đề cần bàn luận ra thành hợp các phần (bộ phận), các mặt (phương diện), các nhân tố để có thể xem xét kỹ càng.

Quy nạp là từ cái riêng suy ra cái chung, từ những sự vật cá biệt suy ra nguyên lý phổ biến.

Diễn dịch là từ những tiền đề chung, có tính phổ biến suy ra những kết luận về những sự việc, hiện tượng riêng

b) Trong lời tựa Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương nhận định: “Thơ văn không lưu truyền hết ở đời là vì nhiều lí do”. Tiếp đó, ông lần lượt trình bày bốn lí do khiến thơ văn thời xưa đã không thể truyền lại đầy đủ được. Anh (chị) thấy, ở trường hợp cụ thể này, tác giả đã sử dụng thao tác phân tích hay diễn dịch ? Vì sao ? Việc dùng phép diễn dịch (hay phân tích) như thế có tác dụng gì ?

Dựa vào kết quả tìm hiểu trên, hãy nhận xét và đánh giá về cách sử dụng thao tác nghị luận trong lập luận sau :

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên.

(Thân Nhân Trung, Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba)

Gợi ý trả lời: Đoạn trích trong Tựa trích diễm thi tập, tác giả dùng thao tác phân tích, chia một nhận định chung thành những mặt riêng biệt để làm rõ các nguyên nhân làm cho thơ văn không được lưu truyền đầy đủ

Đoạn trích trong Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, Từ câu 1 đến câu thứ 2, tác giả dùng thao tác phân tích để xem xét mối quan hệ giữa hiền tài và đất nước. Từ hai câu đầu sang câu thứ 3, tác giả dùng thao tác diễn dịch, từ luận điểm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” suy ra phải coi trọng hiền tài

c) Cũng trong lời tựa Trích diễm thi tập, sau khi nêu bốn lí do hạn chế, Hoàng Đức Lương rút ra kết luận : Vậy thì các bản thảo thơ văn cũ mỏng manh kia còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành ?

Kết luận này có được là nhờ tác giả đã tổng hợp hay quy nạp ? Thao tác tổng hợp (hay quy nạp) đó giúp gì cho quá trình lập luận càng trở nên có sức thuyết phục hơn ?

Hãy xét xem, trong đoạn trích sau đây có sử dụng thao tác tổng hợp (hay quy nạp) giống với trường hợp trên không ? Vì sao ?

Ta thường nghe : Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thì cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phào Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có ?

(Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ)

Gợi ý trả lời: Tác giả dùng thao tác tổng hợp nhằm thâu tóm những ý bộ phận vào một kết luận chung, làm cho kết luận ấy bao gồm sức thuyết phục của toàn bộ các luận điểm nhỏ

Tác giả dùng thao tác quy nạp, những dẫn chứng khác nhau đều phục vụ cho một kết luận: “Từ xưa … đời nào không có” trở nên đáng tin cậy và thuyết phục

d) Những nhận định nêu dưới đây đúng hay không đúng ? Vì sao ?

– Thao tác diễn dịch có khả năng giúp ta rút ra chân lí mới từ các chân lí đã biết.

Đúng với điều kiện tiền đề để diễn dịch phải chân thực và các suy luận khi diễn dịch phải chính xác.

– Thao tác quy nạp luôn luôn đưa lại cho ta những kết luận chắc chắn và xác thực.

Chưa chính xác, ví nếu quy nạp chưa đầy đủ các mặt riêng thì mối liên hệ giẵ tiền đề và kết luận chưa chắc chắn

– Tổng hợp không chỉ là thao tác đối lập với thao tác phân tích mà còn là sự tiếp tục và hoàn thành của quá trình phân tích.

Đúng, bao giờ cũng phải có quá trình tổng hợp sau khi phân tích.

* Thao tác so sánh

a) Trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, sau khi dẫn ra những tấm gương của sự cống hiến, hi sinh cho kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết :

Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.

Tác giả phải dùng tháo tác nào để có thể nhận rõ sự khác nhau và giống nhau ? Câu văn trên được viết nhằm nhấn mạnh đến sự khác nhau hay sự giống nhau ?

Gợi ý trả lời: Tác giả dùng thao tác So sánh, mục đích là để nhấn mạnh sự giống nhau.

b) Đoạn bàn về việc so sánh đức nhà Lí và nhà Lê trong Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu dẫn dưới đây có cùng mục đích nhấn mạnh sự khác nhau (hoặc giống nhau) như câu trên không ?

Có người hỏi Lê Đại Hành với Lí Thái Tổ ai hơn ?

Trả lời rằng : Về mặt dẹp gian bên trong, đánh giặc bên ngoài để làm mạnh nước Việt ta và ra uy với người Tống thì công của Lí Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành gian nan khó nhọc. Về mặt ân uy rõ rệt, lòng người vui vẻ suy tôn, làm cho vận nước lâu dài, để phúc lại cho con cháu thì Đại Hành không biết lo xa bằng Lí Thái Tổ. Thế thì Lí Thái Tổ hơn.

Từ đó suy ra: Thao tác so sánh bao gồm mấy loại chính ?

Gợi ý trả lời: Tác giả so sánh để nhấn mạnh sự khác nhau, sự hơn kém.

So sánh là thao tác nghị luận, đối chiếu giữa các sự vật dựa trên những căn cứ nhất định để tìm ra sự giống, khác, hơn, kém, ngang bằng để nhận xét, đánh giá một cách chính xác, rõ ráng, thuyết phục.

Các loại so sánh chính:

So sánh tương đồng: tìm ra sự giống nhau.

So sánh tương phản: tìm ra sự khác nhau.

c) Có người hoài nghi tác dụng của so sánh, vì “mọi so sánh đều khập khiễng”. Anh (chị) có tán thành ý kiến đó không ? Vì sao ?

Theo anh (chị), để có thể so sánh đúng cách thì ta cần phải chú ý những điều gì ? Hãy chọn những câu trả lời đúng trong số các câu sau :

– Những đối tượng (sự vật, hiện tượng) được so sánh phải có mối liên quan với nhau về một mặt (một phương diện) nào đó

– Những đối tượng được so sánh phải hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản với nhau.

– Sự so sánh phải dựa trên những tiêu chí cụ thể, rõ ràng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nhận thức bản chất của vấn đề (sự vật, hiện tượng).

– Những kết luận rút ra từ sự so sánh phải chân thực, mới mẻ, bổ ích, giúp cho việc nhận thức sự vật (hiện tượng, vấn đề) được sáng tỏ và sâu sắc hơn.

Gợi ý trả lời: Mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng không có so sánh thì khó có thể nhận ra bản chất sự vật, hiện tượng, vấn đề một cách rõ ràng vì không được xem xét, đối chiếu cùng các sự vật khác

Câu 1: Đúng, vì: Nếu không có bất kỳ mối liên hệ về một phương diện nào đó thì không có căn cứ để so sánh, nếu  so sánh thì cũng chung chung, mơ hồ.

Câu 2: Không chính xác, vì: đã hoàn toàn tương đồng hay tương phản thì không cần thiết phải so sánh nữa.

Câu 3: Đúng, vì: đó chính là cơ sở khoa học  căn cứ vững chắc cho việc so sánh.

Câu 4: Đúng, bởi vì: đó mới là mục đích và yêu cầu làm nên giá trị của so sánh

3. Bài tập luyện tập:

3.1. Bài 1 (trang 134 sgk ngữ văn 10 tập 2):

– Tác giả muốn chứng minh: Thơ Nôm Nguyễn Trãi tiếp thu nhiều tinh hoa của văn hoá dân gian, văn học dân gian

– Thao tác lập luận chính được tác giả dùng chỉ ra điều cần minh chứng là thao tác phân tích. Tác giả đã phân chia luận điểm khái quát thành từng bộ phận cụ thể (tư liệu dân gian, tiếng nói dân gian. ..)

– Từng bộ phận nhỏ hơn được chia thành các bộ phận nhỏ hơn, nhờ vậy luận điểm của đoạn văn được phân tích cặn kẽ, sâu sắc

– Câu cuối của đoạn văn có ý nghĩa quy nạp. Từ trường hợp riêng của Nguyễn Trãi, tác giả nâng nó trở thành sứ mệnh, chức năng cao cả của tác phẩm

3.2. Bài 2 (trang 134 sgk ngữ văn 10 tập 2):

Hiện nay số vụ tai nạn giao thông đang diễn ra ngày một nghiêm trọng và phức tạp. Do ý thức tham gia giao thông kém, cùng với cơ sở hạ tầng giao thông xuống cấp, nghèo nàn. Thực tế cho thấy, số vụ tai nạn giao thông diễn ra nhiều hơn các dịp hội hè, lễ tết do mật độ giao thông tham gia đông, hơn nữa, những người sử dụng thức uống có cồn như rượu, bia cũng thường xuyên tham gia vào điều khiển các phương tiện giao thông, dẫn tới tình trạng mất an toàn.