1. Tìm hiểu chung về tác giả Phạm Đình Hổ:
– Tác giả Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, mất năm 1839
– Tên chữ là Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi ông là Chiêu Hổ với những giai thoại họa thơ cùng nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
– Quê ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương.
– Xuất thân từ dòng dõi thế gia, cha ôngtừng đỗ cử nhân và làm quan dưới triều Lê.
– Từ thuở nhỏ, Phạm Đình Hổ từng ôm ấp giấc mộng văn chương, cuối đời vua Lê Chiêu Thống, ông vào học trường Quốc Tử Giám, thi đỗ sinh đồ, nhưng gặp lúc thời thế loạn lạc nên phải lánh về quê dạy học, và ở ẩn.
– Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng mời ông ra làm quan, nhưng được một thời gian, ông xin nghỉ và lui về ở ẩn. Tuy mấy lần ông đã từ chức, rồi lại bị triệu ra.
Thành tựu văn học:
– Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, ngôn ngữ và văn học, chủ yếu bằng tiếng Hán.
– Di sản văn chương của ông tương đối đồ sộ và rất có giá trị.
– Về văn có thể kể đến hai tập truyện “vũ trung tùy bút” và “tang thương ngẫu lục” (viết chung với Nguyễn Án).
– Về thơ có thể kể đến hai tập truyện “Đông Dã học ngôn thi tập” và “Tùng cúc liên mai tứ hữu”.
2. Giới thiệu khái quát về tác phẩm:
2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
– “Vũ trung tùy bút” (Tùy bút được viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm văn xuôi được viết bằng chữ Hán trong khoảng đầu thế kỉ 19 – đầu triều đại Nguyễn gồm 88 mẩu chuyện nhỏ.
– Tác phẩm tập trung về những vấn đề xã hội, con người mà tác giả chứng kiến và suy ngẫm. Giá trị của tác phẩm không chỉ ở văn chương nghệ thuật mà còn mở rộng trên các lĩnh vực lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội học…
2.2. Thể loại:
– Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết theo thể tùy bút.
Tùy bút là một loại bút kí, thuộc thể loại tự sự nhưng cốt truyện đơn giản (thậm chí không có chuyện), dùng để ghi chép tùy hứng, tản mạn, gặp gì ghi nấy, nhớ đâu ghi đó, không cần hệ thống, kết cấu gì cả (tùy bút trung đại có thể có sự khác biệt so với tùy bút hiện đại: Cô tô, Cây tre Việt Nam)
2.3. Tóm tắt nội dung tác phẩm:
“Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” ghi chép về cuộc sống và sinh hoạt thường ngày ở phủ chúa thời Thịnh – chúa Vương Trịnh Sâm (1742- 1782), Chúa Trình là một ông vua vị chúa nổi tiếng thông minh quyết đoán, kiêu căng và xa xỉ. Tuy nhiên, càng về cuối đời, vị chúa này càng bỏ bê triều chính, đắm chìm trong xa hoa hưởng lạc cùng Tuyên Phi Đặng Thị Huệ.
2.4. Bố cục đoạn trích:
Phần một: Từ đầu đến “triệu bất tường”: Cuộc sống xa hoa hưởng lạc của chúa Trịnh.
Phần còn lại: Lũ hoạn quan thừa gió bẻ măng.
3. Hướng dẫn phân tích chi tiết tác phẩm:
a. Cuộc sống xa xỉ, vô độ của Thịnh Vương Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa:
– Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở khắp các nơi để thoả thú vui “chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp, ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa, vì vậy “việc xây dựng đình đài cứ liên miên”, hao tiền tốn của rất nhiều.
– Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ mỉ:
+ Diễn ra thường xuyên “tháng ba, bốn lần”
+ Huy động rất đông người phục dịch, bao gồm binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồm- mà hồ Tây thì rất rộng.
+ Bày vẽ nhiều trò chơi lố lăng, tốn kém (các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày bán hàng quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, chốc chốc lại ghé vào bờ mua bán, dàn nhạc bố trí khắp nơi quanh hồ để tấu nhạc làm vui….)
– Cảnh trong vườn phủ chúa được tô điểm bởi những vật “phục thủ” nhưng thực chất là của cải cướp đoạt những của quý trong thiên hạ.
+ Chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hòn đá hình dáng kì lạ.
+ Chậu cây cảnh, có những cây cảnh “rễ dài đến vài trượmg”.
+ Núi non bộ “điểm xuyết bày vẽ”.
=> Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những chuyện cũ đã xảy ra trong quá khứ nên cách kể, cách tả của ông rất sống động, từng sự việc, từng cảnh tượng lại hiện lên qua những câu văn thật sinh động. Tất cả đều toát lên thói ăn chơi, xa đọa, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa.
Nghệ thuật:
– Các sự việc, chi tiết đưa ra đều cụ thể, chân thực, khách quan.
– Nhà văn sử dụng biện pháp liệt kê và ngòi bút miêu tả tỉ mỉ một số sự kiện tiêu biểu để khắc họa ấn tượng: Từ chuyện Thịnh Vương thích đi chơi ngắm cảnh đẹp đến chuyện xây dựng đền đài liên tục; từ trò tạo cảnh mua bán các thứ quanh bờ hồ đến thú nghe hòa nhạc mỗi lúc chúa dạo chơi trên bờ Tây Hồ; rồi cảnh vườn trong phủ chúa với bao nhiêu “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch”, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non mà chúa đã “sức thu” từ chốn dân gian… tất cả góp phần tạo nên hình ảnh chân thực nhất.
=> Đoạn văn miêu tả cảnh đêm vắng thanh tịnh với tiếng chim kêu và tiếng vượn hót lan tỏa khắp nơi. Tuy nhiên, điều này không phải là một cảnh thái bình thịnh trị thực sự mà là một dấu hiệu của sự suy đồi và khủng hoảng trong triều đại Lê – Trịnh. Tác giả sử dụng câu “triệu bất tường” để báo hiệu rằng điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Câu văn này mang ý nghĩa cảnh báo về sự suy vong tất yếu của triều đại Lê – Trịnh, được thể hiện qua cảnh u ám, đầy âm khí, chứa đựng nỗi oán hờn của nhân dân đối với ngai vàng mục nát của vua Lê – chúa Trịnh. Tiếng chim kêu vượn hót ran bốn bề chính là lời ca thán của nhân dân đối với chính quyền thực dân, báo hiệu rằng cuộc cách mạng sẽ sớm đến. Sau khi chúa Trịnh qua đời, đã xảy ra loạn kiêu binh, các sự kiện lịch sử liên quan đến việc chiếm đóng và thống nhất đất nước đã diễn ra. Đây được xem là “triệu bất tường” đối với chúa Trịnh, đánh dấu sự tàn nhẫn và bạo lực của một triều đại đang trên đà suy đồi.
b. Những thủ đoạn và hành động của bọn hoạn quan thái giám dưới thời chúa Trịnh:
– Chúng đã ra ngoài dọa dẫm, dò xét xem nhà nào có chậu hoa, cây cảnh, chim quý thì biên hai chữ “phụng thủ”, tiến cống.
– Đêm đến, lẻn ra, sai lính đến đem về, có khi phá nhà đập tường để đưa cây hoặc đá non bộ đi.
– Chúng ăn cướp trắng trợn của dân.
=> Đó là những thủ đoạn vừa ăn cắp, vừa la làng của bọn tay sai quái đản dưới chướng Chúa, như một quy trình quen thuộc của bọn hoạn quan thừa gió, bẻ măng, đục nước béo cò. Như vậy, để được sống xa hoa, hưởng lạc các bậc đế vương, từ chúa đến quan trở thành bọn cướp ngày trắng trợn, xảo quyệt ra sức hoành hành trấn lột khắp chốn cùng quê “cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”.
– Sở dĩ chúng làm được như vậy là vì thời chúa Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ chúa rất được sùng ái và lộng quyền, bởi chúng có thể giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi hưởng lạc. Nhờ vào thế, bọn quan lại cũng ỷ thế nhà chúa mà hoành hành, tác oai, tác quái trong nhân dân để thoải mãn thú chơi xa xỉ, đúng là dột từ nóc dột xuống “thượng bất chính, hạ tắc loạn” (trên không nghiêm, dưới sinh loạn).
– Những hành vi của chúng gây cho dân lành lương thiện nhiều nỗi cơ cực và cuộc sống luôn trong tình trạng bất ổn: bị vu oan, bị hãm hại, bị phá cửa nát nhà tan “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra”, người giầu có bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục khoét, hành hạ….
– Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc có thật tại gia đình mình: Bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý, rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa, chính chi tiết này vừa tăng tính chân thực, tạo niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa
=> Cách miêu tả của tác giả cũng vẫn thể hiện đậm nét tài năng nghệ thuật của ông, vô cùng tỉ mỉ, cụ thể, có vẻ như khách quan, lạnh lùng. Nhưng đến đoạn tả cây lê, cây lựu nở hoa trắng, hoa đỏ thì nhà văn bộc lộ xúc cảm: xót xa, tiếc, hận, giận mà chẳng làm gì được vì mình là kẻ thuộc hạ dưới quyền, là thần dân dưới quyền cai trị của một vương triều thối nát.