Soạn bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và ngắn nhất

Soạn bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và ngắn nhất
Bạn đang xem: Soạn bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và ngắn nhất tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Câu hỏi số 1 trong phần Viết luận? Câu hỏi số 2 trong phần Viết luận? Câu số 3 trong phần Chuẩn bị nghỉ ngơi? Câu số trong phần Soạn bài Nhân 4? Câu số trong phần Soạn bài Nhân số 5?

Bài thơ Nhàn là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ nhất quan điểm và triết lý sống thanh nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mời các bạn tham khảo bài Soạn bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và ngắn nhất sau đây

1. Câu hỏi số 1 trong phần Chuẩn bị bài:

Cách dùng số từ, danh từ ở câu thơ đầu và nhịp điệu của hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ này cho ta biết hoàn cảnh sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?

Hồi đáp:

Trong bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng nhiều số từ “một”, tạo nên nhịp điệu khoan thai, thư thái nhưng không hề nhàm chán khi quy luật của cuộc sống cứ lặp đi lặp lại.

Mỗi số từ kết hợp với một danh từ đi kèm “mai”, “cuốc”, “cần câu” là những nông cụ quen thuộc của người lao động, miêu tả cuộc sống nhàn tản của tác giả rất bình lặng. .

Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng cặp đại từ “ta” và “người” để vừa thể hiện đầy đủ, hài hòa tư thế của tác giả về thú vui nhàn tản nơi thôn dã của tác giả.

Từ đó có thể thấy tác giả bằng lòng với cuộc sống đơn sơ giản dị, cho tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản. Để sống tốt, hãy tránh xa những xô bồ của cuộc sống và tìm về với sự tĩnh lặng của thiên nhiên để tìm sự bình yên cho tâm hồn.

xem thêm: Bình luận bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm siêu hay

2. Câu hỏi số 2 trong phần Soạn Nhàn:

Em hiểu thế nào là “chốn hoang vắng”, “chốn náo động”? Ý kiến ​​​​của tác giả về “dại” và “khôn ngoan” là gì? Tác dụng biểu cảm của nghệ thuật trong hai câu thơ 3 và 4 ?

Hồi đáp:

Nơi “vắng vẻ” ấy chính là làng quê yên bình, tĩnh lặng của người dân lao động. “Cười” là nơi đầy đấu tranh và biến động

Theo giọng điệu trào phúng của tác giả, tôi là kẻ khờ khạo khi tìm về nơi có cuộc sống lao động đơn sơ, giản dị với những món ăn dân dã, sống chan hòa với thiên nhiên. Còn người khôn là người tìm đến chốn phồn hoa, đế đô, hương sơn hải vị, mặc nhung gấm lụa

=> Cách diễn đạt ẩn ý trong hai câu thơ 3 và 4 này làm cho câu thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh hơn nhưng lại nâng lên triết lí nhân sinh cao cả của tác giả.

xem thêm: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm kèm dàn ý

3. Câu hỏi số 3 trong phần Soạn Nhàn:

Sản phẩm và cảnh sinh hoạt ở câu 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ thể hiện cuộc đời như thế nào của Nguyễn Bỉnh Khiêm? (Nhà quê, khốn khó? Bạc mà thanh cao? Hòa hợp với thiên nhiên?)

Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này.

Hồi đáp:

Hình ảnh trong hai câu thơ tiếp theo là những món ăn dân dã, theo mùa của làng quê: măng, giá cùng với cảnh sinh hoạt đời thường tắm ao, hồ.

Hai câu thơ này đưa ra cái nhìn về “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua mối quan hệ của ông với thiên nhiên, thể hiện sự rung cảm, hòa hợp, gắn bó giữa cuộc sống con người với thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành người bạn tốt nhất của con người. Sự vận động biến đổi theo quy luật tự nhiên giúp con người nguôi ngoai trước những biến cố của cuộc đời, tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn khi rời xa chốn quan trường với những tranh chấp ngột ngạt và khói bụi của danh lợi. Cây xanh, gió mát là cảnh sống để con người tìm được sự thanh thản, nhẹ nhõm của tâm hồn để tu tâm hướng thiện. Đó chính là “Lean” được xem xét trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Cách để “Nhàn” là nuôi dưỡng tâm hồn, nghĩa là bớt ham muốn vì càng bớt tham, càng bớt dục thì tâm hồn càng bớt bận rộn.

xem thêm: Văn mẫu bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm siêu hay

4. Câu hỏi số 4 trong phần Soạn Nhàn:

Đọc chú thích 4 để hiểu điển cố được sử dụng trong hai câu thơ cuối. Cảm nhận của em về nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm?

(4) Hai câu 7 và 8 tác giả định dẫn lời Thuần Vu Phân uống rượu ngủ dưới gốc cây huệ, rồi nằm mơ thấy mình ở nước Hòa An, hưởng vinh hoa phú quý. Sau khi tỉnh dậy, hóa ra là mơ, thấy dưới cành hoa phía nam chỉ có một tổ kiến. Từ điển này có nghĩa là sự giàu có chỉ là một giấc mơ.

Hồi đáp:

Việc tác giả sử dụng điển cố trong đoạn thơ là một lời khuyên triết lí của tác giả.

Giống như quan niệm sống của Đạo gia, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có quan điểm tương tự về cuộc đời là hư ảo và vô thường. Đời người vốn dĩ ngắn ngủi, được và mất trên cõi đời này là do số phận và theo chu kỳ, vì thế con người đừng bi quan, vội vàng hưởng thụ những thú vui của cuộc đời. Ông là một triết gia nên ông cho rằng chân lý của đời người là không bám víu vào những thứ không thể nắm bắt, không lấy tương đồng làm tuyệt đối, bình thản trước những đổi thay của cuộc đời.

Vì vậy, ông khuyên mọi người đừng quá lo lắng mà hãy rộng lượng, bình tĩnh thả câu lên thuyền hòa mình vào thiên nhiên. Bởi theo ông, đất nước có thăng trầm, cuộc sống có bế tắc, bế tắc. Người quân tử tự nhiên có thể biết rằng hành động, tùy thời giúp nước hoặc lui binh, ỷ vào tự tin mà chống lại thiên nhiên, chỉ phí công mà thôi. Giai đoạn trước và trong thời kỳ làm quan nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có dịp thấy rõ thăng trầm là lẽ tự nhiên, không ai thay đổi được nên đã lui về quê hương Trung Am để an nhàn với thiên nhiên. . Ông làm theo triết lý của Lão Tử, sống nhàn nhã ở Bạch Vân Am đến cuối đời, cũng khuyên người nên làm như vậy.

xem thêm: Văn mẫu mở bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm siêu hay

5. Câu hỏi số 5 trong phần Soạn Nhàn:

Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm sống thanh nhàn là gì?

– Không vất vả, không vất vả.

Không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống nhàn hạ của mình.

—Tránh xa chốn quyền quý để giữ phẩm cách cao thượng.

– Hòa hợp với thiên nhiên.

Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Tại sao ?

Trả lời:

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), nhà tư tưởng lớn của Việt Nam thế kỷ XVI, đã đóng góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam nhiều tư tưởng có giá trị, trong đó có quan điểm Nhân. Tư tưởng “Nhân” ra đời từ đặc điểm xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, kế thừa những giá trị trong truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt chịu ảnh hưởng sâu sắc, rõ nét của dân tộc Việt Nam. Đạo gia và triết lý sống của Đạo gia. Cái chết. Lão Tử cho rằng con người không thể can thiệp vào sự tiến hóa của vạn vật mà phải “không làm gì” theo quy luật – “Đạo” (tín) để thích ứng với sự phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội.

Tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là vấn đề nổi bật xuyên suốt tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi nó phản ánh đặc điểm và yêu cầu của lịch sử – xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, với nhiều biến động chính trị – xã hội, đầy bất công và luân lý. suy đồi.

Nếu Đạo giáo cho rằng con người cần phải “vô vi” là đi ngược lại quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, thì thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện qua sự nhàn tản. Thời gian rảnh rỗi của ông là để theo tôn giáo của tự nhiên và xã hội. Vì Ngài biết rằng, trong sự vận động không ngừng của “Đạo”, con người dù có chống cự cũng vô ích, chỉ chuốc lấy họa vào thân.

Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, phạm trù “Nghỉ ngơi” được thể hiện rất phong phú và sâu sắc qua nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng có thể tiếp cận từ hai góc độ chính sau:

“Nhàn” được thể hiện trong mối quan hệ với thiên nhiên, ông thích cuộc sống giữa trăng nước, hoa lá chim muông, với cuộc sống trong lành nơi thôn dã: “Thu ăn măng trúc, Đông ăn đọt non, Xuân tắm hồ sen, bơi trong ao”

Chữ “nhàn” của ông không phải để trốn tránh thế tục mà để thể hiện một quan niệm sống không màng danh lợi để giữ cho tâm hồn trong sáng. “Thân nhàn” nghĩa là người có phẩm chất cao. Nhàn là ở trong tâm, không phải làm gì cả.

Ông căm ghét, khinh thường, sợ hãi hoàn cảnh nhưng không khinh thường cuộc đời nên luôn trăn trở trước cuộc đời, trước nỗi đau của nhân dân, của đất nước. Đây là đạo đức của những trí thức ngoan cố muốn giữ mình, tự trọng khi phải chấp nhận mình không có khả năng cải thiện tình hình. Từ đó, ông thanh thản trong lòng, coi thiên nhiên là nguồn cảm hứng dồi dào để sáng tác thơ văn ngày càng đa dạng. Nguyễn Bỉnh Khiêm thích sống giữa trăng nước, hoa lá, chim muông, làng quê. Sở thích đó được thể hiện qua những câu thơ đẹp, giàu hình ảnh, viết độc đáo về sự hài hòa, thỏa mãn hồn nhiên, vui sướng giữa người nghĩ và thiên nhiên quê hương.. Trước cảnh phức tạp, tranh giành danh lợi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xa danh lợi, xa rời thế tục, xa bạn bè, chỉ làm bạn với thiên nhiên, với cảnh sắc non xanh nước biếc nên thơ. Thiên nhiên là người bạn tâm giao của ông, ông tìm thấy ở thiên nhiên nguồn cảm hứng bất tận và thường lấy thiên nhiên làm đề tài ngâm thơ. Tình cảm của ông đã lồng vào thơ, tả cảnh để gửi gắm tình cảm của mình.

Hòa mình với thiên nhiên, tác giả tìm thấy niềm vui và niềm an ủi sâu sắc. Thiên nhiên là cội nguồn của những cơn mưa rào mát lành gột rửa những nhơ nhớp của tâm hồn, là nơi thanh lọc tâm hồn và nuôi dưỡng nhân cách. Tâm hòa vào bản ngã của đất trời để lánh xa cuộc sống hối hả. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là để che đậy nỗi bất bình đang khuấy động trong tâm hồn của nhà tư tưởng nhạy cảm, giàu lòng nhân ái và trách nhiệm “vui sau thiên hạ, lo trước thiên hạ”. Đây là lý tưởng và hoài bão của một học giả và trí thức chân chính. Ông không chịu ức hiếp dân chúng của bọn quan lại tham lam trác táng. Vì vậy, ông chọn cách giúp nước, can đảm ngăn vua Mạc khuất phục quần thần, hay từ quan dạy học, làm thơ…

Quan điểm nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là quan điểm tích cực khuyên con người tránh xa những lợi lộc vật chất phù du để giữ được cái tâm cao thượng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *