Tóm tắt chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ tại Việt Nam

Tóm tắt chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ tại Việt Nam
Bạn đang xem: Tóm tắt chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ tại Việt Nam tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian lao, chiến tranh cục bộ được xem như cột mốc đánh giá đứng về chất lượng sản phẩm. Cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây để có thể thấy được nghĩa to lớn của Chiến tranh cục bộ

1. Chiến tranh Cục bộ là gì?

Chiến tranh cục bộ là một chiến lược quân sự của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam (1965 – 1968). Đây là chiến lược quân sự do quân đội Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn tiến hành – lúc cao điểm năm 1969, quân số lên tới gần 1,5 triệu người. Chiến lược này được dùng để thay thế “Chiến tranh đặc biệt” sau thất bại của Mỹ ở chiến trường Việt Nam. Quân đội Hoa Kỳ thực hiện chiến lược này bằng cách sử dụng tất cả các lợi thế của mình. Chính ưu thế về hỏa lực, kỹ thuật và quân số của quân viễn chinh Mỹ đã tiêu diệt được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng thời thiết lập ảnh hưởng lâu dài của Hoa Kỳ đối với miền Nam Việt Nam bằng việc xây dựng chế độ quân phiệt. Việt Nam Cộng Hòa – vốn là tay sai của Mỹ. Đây được coi là giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến.

2. Diễn biến Chiến tranh Cục bộ:

2.1. Hoàn cảnh:

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Nội dung của chiến lược này là dùng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Quân Ngụy ra tay đánh chiếm, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25-30 tháng (1965-1967). Để thực hiện chiến lược này, chúng đưa vào miền Nam Việt Nam số quân Mỹ lên đến hơn nửa triệu người, chưa kể quân một số nước chư hầu. Đồng thời, đẩy mạnh sử dụng hải quân, không quân đánh trả quyết liệt âm mưu “Đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc và quốc tế vào miền Nam.

2.2. Chiến đấu trên mặt trận Quân sự – Chính trị:

Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ XI (3-1965) và Hội nghị lần thứ XII (Ban Chấp hành Trung ương Đảng), trên cơ sở phân tích, so sánh lực lượng giữa ta và địch một cách khoa học, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định sự thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ và quyết tâm huy động lực lượng cả nước đánh giặc, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi lịch sử kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm đánh Mỹ, cứu nước. Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, nhà máy có thể bị phá hủy, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không bị phá hủy. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày toàn thắng, nhân dân ta sẽ xây dựng lại Tổ quốc đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.” Ở chiến trường miền Nam, các phong trào “Dũng cảm diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ mà đánh, ngụy quân mà diệt”, các phong trào “Giết giặc lập công”, “Tăng cường đánh địch, bao vây, diệt địch” dấy lên khắp các chiến trường, các địa phương ở Nam Bộ, tiêu biểu là trận Vạn Tường mở đầu (18/8) -19/1965), cụ thể rạng sáng ngày 18/8/1965, Mỹ huy động 9.000 quân, 105 xe tăng – thiết giáp, 100 trực thăng và 70 máy bay chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào làng Vạn Tường, một trung đoàn chủ lực của ta với du kích và nhân dân. Địa phương đã đẩy lùi cuộc càn quét, loại 900 tên địch ra khỏi vòng chiến đấu, đốt cháy 22 xe tăng, thiết giáp, bắn rơi 13 máy bay, sức mạnh của nhân dân tiếp tục được minh chứng trong hai mùa khô Bước sang mùa khô thứ nhất (đông – xuân 1965 – 1969), với 720.000 quân, trong đó có 220.000 quân Mỹ, địch mở cuộc phản công bằng 5 cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chủ yếu trên biển Đông, Đông Nam Bộ và Khu V với mục tiêu tiêu diệt chủ lực quân Giải phóng.

Bước sang mùa khô thứ hai, với lực lượng tăng lên hơn 980.000 quân, riêng Mỹ và đồng minh chiếm hơn 440.000 quân, Mỹ mở cuộc phản công bằng 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gianson Siti đánh cứ điểm Dương Minh Châu tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của ta. Tuy nhiên, Mỹ vẫn thừa nhận thất bại trong chiến dịch này. Kết quả, sau hai mùa gian khổ, trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã loại hơn 240.000 tên địch ra khỏi vòng chiến đấu, bắn rơi và phá hủy hơn 2.700 máy bay, phá hủy hơn 2.200 xe tăng, thiết giáp. Ở hầu hết các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống ách đô hộ của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”. Ở hầu hết các thành phố, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, phật tử, binh lính Sài Gòn đấu tranh đòi Mỹ rút về nước đòi tự do, dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể nói, thắng lợi vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966; 1966 – 1967) ở miền Nam và những thắng lợi khác đã đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược.

Ở hậu phương miền Bắc đã diễn ra các phong trào thi đua sôi nổi như: “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba sẵn sàng” của phụ nữ, “Tay búa, chắc súng” của công nhân, “Thóc không thiếu một cân, quân không tiếc một người”, “Người cày, tay súng”, “Xe chưa qua, nhà chẳng tiếc” của nông dân, “Ba quyết tâm” của người trí thức. Với khẩu hiệu “Tiền nào của nấy”, tất cả nhằm đánh thắng giặc Mỹ” đã tạo nên một ý chí mới, sức mạnh mới trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Cục diện chiến trường lúc này đã ở thế thua, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược mà muốn đẩy nhanh chiến tranh cho đến khi nước rút nên tình hình chiến trường ngày càng nóng bỏng. Đồng thời, quân ta tuy giành được thắng lợi to lớn nhưng chưa làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho ta. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1-1968) chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần và có thể làm chuyển biến lớn cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ. Nước đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, sóng gió về sách lược và vào thời điểm rất nhạy cảm, năm bầu cử Tổng thống Mỹ, đưa cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền Nam bước sang thời kỳ mới, thời kỳ quyết định thắng lợi, bước ngoặt quan trọng của cuộc cách mạng.

2.3. Cuộc nổi dậy mùa xuân năm 1968:

Bước sang mùa Xuân 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng chuyển biến có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng những mâu thuẫn trong năm bầu cử Tổng thống Mỹ, Đảng, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và cuộc khởi nghĩa Mậu Thân nổ ra đời năm 1968 giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Trọng tâm là đánh vào thành phố để tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ và đồng minh, đánh chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mỹ phải đàm phán và rút quân. Cụ thể, đêm 30-31/1/1968 (tức đêm mùng 1, mùng 2 Tết), quân dân miền Nam tổng tiến công và nổi dậy khắp miền, đồng loạt tiến công địch tiến công 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, hầu hết các cơ quan đầu não trung ương và địa phương của Mỹ, ngụy; trong đó có 4 Bộ Tư lệnh các Quân khu và Quân chủng, 8 Bộ Tư lệnh Sư đoàn, 2 Bộ Tư lệnh Đặc công, 2 Bộ Tư lệnh Dã chiến, 30 sân bay, nhiều kho tàng lớn, trong đó có những trận đánh chấn động. các trận đánh lớn như trận tấn công tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập ngụy, Bộ Tổng tham mưu ngụy ở Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế. Nhiều sở chỉ huy, căn cứ quân sự và các tuyến phòng thủ quan trọng của địch bị phá hủy, mạng lưới giao thông và liên lạc trên bộ bị tê liệt.

3. Ý nghĩa của Chiến tranh cục bộ:

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 của ta như một “tiếng sét” giáng xuống đế quốc Mỹ, bởi Việt Nam là một nước nhỏ, người ít nhưng có tinh thần chiến đấu quật cường, khiến cả thế giới phải điêu đứng. Dư luận Mỹ và thế giới bàng hoàng. Trước tình hình đó, Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố với quân đội của mình 4 điểm:

– Ngừng đưa quân Mỹ vào miền Nam, chuyển dần vai trò trực tiếp cho quân đội Sài Gòn.

– Đơn phương chấm dứt đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

– Chấp nhận đàm phán với tôi tại Hội nghị Paris.

– Không tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ hai.

Tuy có những tổn thất do thiếu phương hướng nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vẫn có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ hóa” chiến tranh tức là thừa nhận thất bại “Chiến tranh cục bộ”, chấm dứt vô điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh.