Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ngắn gọn

Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ngắn gọn
Bạn đang xem: Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ngắn gọn tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Giới thiệu sơ lược về tác phẩm Vợ nhặt:

Hoàn cảnh ra đời:

Vợ nhặt được đánh giá là truyện ngắn hay nhất của Kim Lân trong tập Con chó xấu xí. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ở – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dở dang và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông  đã dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.

– Giới thiệu nhân vật Tràng:

Tràng là một chàng trai xấu xí, thô kệch, chất phác, ở trọ với mẹ, làm nghề kéo thuê. Ở đó, qua những câu chuyện cười và vài cái bánh, anh quyết định nên vợ nên chồng. Trên đường về, anh có vẻ vui. Về đến nhà, anh mong ngóng mãi không thấy mẹ về. Ngày hôm sau, Tràng nhận ra một sự thay đổi lớn trong cuộc sống khi mọi thứ bừa bộn trở nên ngăn nắp. Trong bữa cơm đầu tiên húp bát cháo cám ở Cô Thị, nhưng khi nghe tin quân dân đi khám phá Tết Nhật Bản, cờ đỏ sao vàng phấp phới trong tâm trí Tràng.

Nhân vật Tràng chính là nhân vật điển hình cho người nông dân lúc bấy giờ, bế tắc trước hoàn cảnh thực tại nhưng lại không biết phải làm thế nào.

1. Mẫu tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn Vợ nhặt:

Truyện ngắn “Vợ nhặt” được in vào năm 1962. Tác phẩm có tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư” nhưng sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tác phẩm này bị mất bản thảo nên mãi đến khi hòa bình lập lại năm 1954, Kim Lân mới dựa trên cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, cái đói ấy đã bắt đầu tràn xuống xóm ngụ cư, khiến trẻ con thì ủ rũ, người lớn thì dật dờ, lặng lẽ y như những bóng ma. Giữa lúc ấy, anh cu Tràng lại dắt một người đàn bà xa lạ về nhà. Trẻ con trong xóm chạy ra xem và gào lên “chồng vợ hài”. Người lớn vô cùng ngạc nhiên bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ nay bỗng rạng rỡ lên. Về đến gian nhà vắng teo, xập xệ, rúm ró, xiêu vẹo, Tràng trong tâm trạng sốt ruột, lo lắng chờ bà cụ Tứ về nhà; người đàn bà xa lạ kia chỉ dám ngồi ở mép giường và thị cũng đang trong tâm trạng buồn, lo lắng. Trời chạng vạng tối bà cụ Tứ mới về, bà đã rất ngạc nhiên khi trong nhà có người đàn bà lạ lại còn chào mình bằng u. Được Tràng giải thích, bà hiểu ra, lúc này bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng, xót xa, buồn tủi, ai oán xen lẫn cả niềm vui, rồi cuối cùng bà đã mở rộng trái tim đón lấy thị, nhận là con dâu. Đêm tân hôn của vợ chồng Tràng diễn ra trong cảnh tiêu điều, tan tác và thê lương. Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn và nhận thấy sự thay đổi lạ thường của căn nhà, đống quần áo rách được đưa ra phơi, đống rác ở đầu ngõ đã được hót sạch, ang nước khô đã được kí sân vườn được dọn dẹp sạch sẽ. Cảnh vật ấy làm cho Tràng thấy hạnh phúc, anh có cảm giác phấn chấn và nghĩ rằng mình cần có trách nhiệm bổn phận với gia đình. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới được bà cụ Tứ chuẩn bị là một lùm rau chuối thái rối, muối trắng cùng bát cháo lõng bõng và một nồi chè khoán. Trong bữa cơm, gia đình nói chuyện vui vẻ, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui. Nhưng khi nghe tiếng trống thúc thuế nổi lên, bà cụ lại khóc, còn trong tâm trí Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê đang đi phá kho thóc của Nhật.

2. Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân:

Mẫu số 1:

Trong lúc cả xóm đang thu nhặt xác chết, tiêu điều trong nạn đói, chiều muộn, Tràng – một nông dân nghèo, già, tật nguyền, ngụ cùng xóm – đưa về nhà một người phụ nữ – người vợ luống cuống. Thấy người vợ hấp hối trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Với lời bông đùa và lời mời ăn bánh, Trang được người phụ nữ này đồng ý cho theo về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón con dâu trong tâm trạng buồn bã, lo lắng, hồi hộp, mong chờ khó tách rời nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng về người đàn bà đi theo mình không có con. Đêm tân hôn của họ diễn ra buồn bã trong không khí chết chóc, ủ rũ từ lối xóm. Sáng hôm sau, cụ Từ và tân nương đội khăn che mặt, quét tước từ trong ra ngoài. Trước cảnh đó, Tràng cảm thấy mình gắn bó, có trách nhiệm với ngôi nhà của mình, thấy mình như một con người. Người vợ ra dáng một người phụ nữ đứng đắn, dịu dàng, không còn vẻ bất cần như lần đầu gặp mặt. Chú Tư vui vẻ đãi hai đứa con vài bát cháo và nồi chè cám. Qua câu chuyện của vợ, Tràng hiểu về Việt Minh và trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh một đám đông kéo nhau đi thăm dò, đón Nhật, phía trước là lá cờ đỏ phấp phới.

Mẫu số 2:

Tràng là một thanh niên nghèo làm nghề kéo xe bò để kiếm sống. Vắng vợ đã lâu nhưng bất ngờ “rước” vợ về dễ dàng chỉ bằng vài câu bông đùa, bánh bèo. Trên đường về, Trang ngượng chín mặt vì đi lấy chồng. Mọi người trong xóm ngạc nhiên khi thấy một người phụ nữ lạ mặt đi theo Tràng, rồi lo lắng cho anh vì anh đã đâm chết một con bò sữa để bú sữa giữa nạn đói khủng khiếp. Trước khi con trai lấy vợ, bà Từ lúc đầu rất ngạc nhiên, sau khi hiểu ra, bà vừa buồn vừa vui và chấp nhận chị dâu là con dâu của gia đình. Sáng hôm sau, Tràng sung sướng như vừa bước ra khỏi giấc mộng. Anh nhận thấy sự thay đổi trong công việc quét nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Trông cảm động, cảm thấy gắn bó với quê hương và cảm thấy như một con người. Trong bữa sáng đón dâu mới, cả nhà Tràng ăn uống say sưa, người vợ ra dáng một người phụ nữ dịu dàng chứ không xa cách, nóng nảy như hai lần đầu gặp mặt. Bà Tư không chỉ hàn huyên chuyện vui, chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng nồi “chè bếp”. Thế nhưng cả ba người đều im bặt và tức tối ngay khi vừa cho miếng đầu tiên vào miệng để đánh lừa họ bởi “chè cuu” mới thực sự là món ăn hấp dẫn Hà Nội. Trong lúc đó, cô con dâu nghe tiếng trống thúc thuế và kể chuyện dân đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang dậy đi phá ăn Tết. Câu chuyện ấy hiện lên trong tâm trí Tràng với hình ảnh những người dân đói khổ đi trên đê Sộp và những lá cờ đỏ phấp phới bay phấp phới.

3. Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân ngắn gọn nhất:

Mẫu số 1:

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trích từ tập Con chó xấu xí. Câu chuyện kể về số phận của một cậu bé tên Trang. Trong nạn đói hoành hành năm 1945 giết chết hơn 2 triệu người, dịch tả hoành hành khắp nơi, nhưng một chàng trai tên Trang đã lấy vợ (hay nói đúng hơn là lấy vợ). Tràng được tác giả miêu tả là một gã rất xấu xí, cộc lốc, thô lỗ nhưng đã lấy được vợ. Khi hay tin anh Tràng lấy vợ, cả khu phố nơi anh ở đều hoang mang lo lắng cho anh, nhất là mẹ anh, ai cũng gọi là bà Tư, có lúc vui có lúc buồn không biết vì sao? Khi con trai lấy vợ, bà không mơ ước gì hơn là chúc vợ chồng anh có một cuộc sống tốt đẹp. Bữa cơm mừng chị dâu mới đến, bà cụ kể toàn chuyện vui, bà mong tương lai hai đứa con tươi sáng, nồi chè om do chính tay bà làm ra là khắc nghiệt nhưng thể hiện được sự quan tâm của bà đến hạnh phúc của con cái. Trong lúc trong gia đình vui mừng đón dâu mới, có tiếng trống khai thuế, trong đầu Tràng nghĩ đến lá cờ Việt Nam phấp phới cùng nhiều người đi cướp của báu của giặc đem chia cho dân nghèo. Đó chính là tinh thần đoàn kết của những người dân chịu khổ nạn trong chiến tranh và họ luôn hy vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đợi họ ở phía trước.

Mẫu số 2:

Khi cả cộng đồng đang sống trong cảnh nghèo đói, đói khát tàn phá, một đêm nọ, một người phụ nữ được Tràng, một nông dân nghèo, thô lỗ, dở hơi sống gần đó đón về nhà. – Được vợ nhặt. Trên đường gặp vợ, Tràng sống trong cảnh nghèo khổ cả đời. Vừa đùa, vừa mời ăn bốn bát bánh, Trang được người phụ nữ hứa hẹn sẽ theo về nhà. Mẹ Trần (bà Tú) đón con dâu với sự miễn cưỡng, lo lắng, căng thẳng và cả hy vọng, nhưng bà không keo kiệt với người phụ nữ không con. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, thê lương của cả xóm. Sáng sớm hôm sau, bà Tư và cô dâu mới xăm rửa sạch sẽ mọi thứ từ trong ra ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng như có cảm giác gắn bó, trách nhiệm với ngôi nhà của mình, cảm thấy mình như một con người. Người vợ trông dịu dàng và tinh tế, không còn tự mãn như lần đầu họ gặp nhau. Chú Tư vui vẻ chiêu đãi họ bát cháo và ấm trà cám. Qua câu chuyện của vợ, Dong Lang biết đến Việt Minh, và trong đầu Dong Lang là hình ảnh những người dân chết đói cùng nhau phá kho thóc Nhật, trước kho thóc là lá cờ đỏ tung bay.