Tục ngữ là một loại hình văn học dân gian Việt Nam. Nó đã có từ lâu đời và ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người Việt Nam. Tuy nhiên, để phân biệt tục ngữ với thành ngữ thì không nhiều người làm được. Vậy tục ngữ là gì? Phân biệt Thành ngữ với Tục ngữ? Ví dụ?
1. Tục ngữ là gì?
Ca dao, tục ngữ là một bộ phận cấu thành của ngôn ngữ Việt Nam. Việc sử dụng tục ngữ trong hội thoại hàng ngày đã rất quen thuộc với mỗi người con Việt Nam, nhưng không phải ai cũng biết về khái niệm tục ngữ.
SGK Ngữ văn 7 xác định: “Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, thường có vần điệu, nhịp điệu và hình ảnh. Nó thể hiện kinh nghiệm của cha ông tổng kết về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội). Nó được nhân dân vận dụng vào cuộc sống, từ suy nghĩ, lời nói, tiếng nói. Đây là một thể loại văn học dân gian.”
Tục ngữ là tập hợp những kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ lưu truyền.
Ví dụ:
“Đêm tháng năm chưa nằm/Ngày tháng mười chưa cười đã tối”.
Ý nghĩa: Nói về sự khác biệt giữa ngày và đêm của thời gian trong năm. “Đêm tháng Năm” chỉ thời điểm mùa hè, khi mặt trời thường sáng hơn (ngày dài hơn). Còn “ngày tháng mười” chỉ thời gian mùa đông, mặt trời ở xa nên ít chiếu sáng (đêm dài hơn).
2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ? Ví dụ?
2.1. Về hình thức:
Một câu tục ngữ được coi là một câu có cấu trúc và thể hiện một ý nghĩa cụ thể.
Thành ngữ chỉ là một cụm từ cố định có nghĩa chứ không phải là một câu hoàn chỉnh. Chính vì vậy người ta gọi chúng là “câu tục ngữ” chứ không phải là “câu thành ngữ”.
Thành ngữ và tục ngữ có thể gieo vần hoặc không gieo vần. Nhưng nếu có vần thì thành ngữ thường có vần lưng, còn tục ngữ bình dân có vần xuôi, vần xuôi.
Ví dụ về thành ngữ:
Một nắng hai sương
Chiên crock thành mỡ
Đâm ba nhát
Ví dụ về câu tục ngữ:
Đói cho sạch rách cho ngon
Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Quá nhiều thành viên gia đình đi ra ngoài
2.2. Về nội dung:
Câu tục ngữ thể hiện đầy đủ một ý nghĩa nào đó. Thông thường đó là tổng kết những kinh nghiệm về tăng gia sản xuất, hiện tượng đời sống v.v.
Ví dụ: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây cùng làm nên hòn núi cao” hay “Một ngày đàng học một sàng khôn”.
Thành ngữ có những nghĩa nhất định nhưng phải gắn với các thành tố khác để tạo nên câu và nghĩa cụ thể trong ngữ cảnh nói đến. Thành ngữ thông thường là những đánh giá, thể hiện tính cách, quan điểm,… của con người. Thành ngữ thường chỉ xuất hiện như một mệnh đề đứng trong câu. Tục ngữ hoàn toàn có thể đứng một mình để tạo câu.
Ví dụ: Chúc bạn “mẹ tròn con vuông” vuông tròn” / Anh không thể “Đứng núi này trông núi nọ”/ Chúc hai người bên nhau đến “răng long đầu bạc”“.
3. Nguồn gốc câu tục ngữ:
Tục ngữ có từ lâu đời, có khi xuất hiện từ xa xưa để đúc kết những kinh nghiệm, quan sát từ lao động, sản xuất và đời sống xã hội. Tục ngữ có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như:
– Từ đời sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác.
– Tách biệt với tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại.
– Vẽ được tác phẩm văn học theo lối kể dân gian bằng lời hay ý đẹp.
– Từ vay nợ nước ngoài.
4. Nội dung câu tục ngữ:
Tục ngữ Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Một số nội dung chính qua các câu tục ngữ bao gồm:
Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất:
Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất là những câu tục ngữ được đúc kết từ những bài học, những chiêm nghiệm trong cuộc sống được tổ tiên truyền lại từ đời này sang đời khác. Tóm lại, với vần điệu, nhịp điệu, giàu hình ảnh, những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất đã phản ánh, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong quan sát các hiện tượng tự nhiên và trong lao động sản xuất. Những câu tục ngữ này là “túi khôn” của dân gian, nhưng cũng chỉ chính xác tương đối vì nhiều kinh nghiệm được đúc kết chủ yếu dựa trên quan sát.
Những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất ra đời khi con người lao động, đấu tranh với thiên nhiên và được ông cha ta đúc kết thành kinh nghiệm của mình. Cho đến ngày nay, nó vẫn luôn được lưu truyền rộng rãi và trở thành một lĩnh vực tri thức về khoa học dân gian.
Một số câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất
– Kiến đen mang trứng lên cao,
Dù sao, mưa rất lớn.
– én bay thấp mưa ngập ao
Chim én bay cao và mưa tạnh.
– Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lũ lụt.
– Nhất quốc, nhì phân, tam cần tứ giống
– Chuồn chuồn bay thấp, mưa ngập ao
Chuồn chuồn bay cao trời tạnh mưa
– Muốn thì nắng, không muốn thì mưa.
Tục ngữ về con người và xã hội:
Những câu tục ngữ về con người và xã hội luôn thể hiện sự trân trọng giá trị cao quý của con người, đưa ra những nhận xét, lời khuyên về những phẩm chất, lối sống mà con người cần phải có. Những câu tục ngữ này thường giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hàm súc về nội dung.
Một số câu tục ngữ về con người và xã hội thường dùng:
– Ăn cơm với bò thì ngáy ngay, ăn cơm với bò thì ngáy.
– Cái răng cái tóc là góc con người.
– Những người sống trong đống vàng.
– Con người là vàng, của cải là tự thân.
– Lòng người như bể không dò.
– Nhà thông thái quay mặt đi.
– Giả chết cho biết bụng.
– Cơ hội xui xẻo.
– Nhìn vào khuôn mặt và bắt đầu tưởng tượng.
– Đã nghèo còn mắc cái eo.
– Chữ viết đẹp, người đọc giỏi.
Tục ngữ thể hiện triết lý dân gian:
Tục ngữ thể hiện triết lý dân gian là kinh nghiệm sống, truyền thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân.
Một số câu tục ngữ thể hiện triết lý dân gian thường được sử dụng như:
– Tay làm hàm nhai, tay trễ.
– Có công mài sắt nên hoàn hảo.
– Giấy rách vẫn giữ lề.
– Chữ tín quý hơn vàng.
5. Nghệ thuật của câu tục ngữ:
Nghệ thuật của câu tục ngữ được thể hiện ở các phương diện sau:
– Tục ngữ có mối quan hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố nội dung và hình thức. Trong một câu tục ngữ, hình thức và nội dung luôn gắn bó chặt chẽ với nhau để tạo thành một câu hoàn chỉnh, thống nhất về cả hai yếu tố. Điều này cho thấy tính bền vững của câu tục ngữ.
– Tính hình tượng trong tục ngữ được thể hiện qua các phép so sánh, ẩn dụ, nhân hoá. Ví dụ câu tục ngữ “Những người sống trong vàng” – Một đống vàng tượng trưng cho của cải vật chất.
– Tục ngữ có vần (vần liền, vần cách) hài hòa, ngắn gọn, súc tích. Tục ngữ được lưu truyền chủ yếu theo phương thức truyền miệng nên hầu hết đều có vần dễ thuộc, dễ nhớ.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Kẻ ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Thắng làm vua, thua trận.
Ăn cây táo, rào quanh cây.
6. Phân tích câu tục ngữ “hChúa ơic Hở?N, hChúa ơiCNồTôi, hChúa ơicgồTôi, hChúa ơicmsống“:
Câu tục ngữ này bao gồm bốn mệnh đề có mối quan hệ bổ sung cho nhau. Động từ học được lặp lại bốn lần, vừa chỉ rõ những gì mọi người cần học vừa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập suốt đời.
Ông bà ta xưa rất quan tâm khuyên nhủ, răn dạy con cháu bằng những câu tục ngữ như: Lời nói xương máu… Ăn trong ngồi trốc, Ăn theo nơi, chơi theo nơi, ngồi xem phương hướng, Ăn ngay, nói thẳng; Lời nói đẫm máu; Một lời nói dối, bảy ngày đền tội. ….
Ý nghĩa của việc học ăn, học nói tương đối dễ hiểu, còn thế nào là học tốt, học mở?
Liên quan đến hai khía cạnh này, có một giai thoại như sau: “Các cụ kể rằng, ở Hà Nội ngày xưa, một số gia đình khá giả thường gói mắm trong lá chuối xanh, đặt vào lòng chiếc bát nhỏ trên mâm. Lá chuối tươi rất giòn, dễ rách khi gói, dễ bung ra khi làm, phải rất nhẹ nhàng và khéo léo. Người ăn phải biết cách mở ra để khói thoát ra bắn vào quần áo người bên cạnh. Biết gói, biết gói trong trường hợp này được coi là tiêu chuẩn của người khéo léo, khéo léo. Vì vậy, để biết cách đóng và mở, bạn phải học.”
Rộng ra, nghĩa của học gói, học mở còn có thể hiểu là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải học nhiều thứ một cách cẩn thận, tỉ mỉ.
Mỗi hành vi là một lần “tự giới thiệu” với người khác và được người khác nhận xét, đánh giá. Vì vậy, chúng ta phải học để qua ngôn ngữ, hành vi thể hiện mình là người có văn hóa, lịch sự, tế nhị, thành thạo trong công việc, biết đối nhân xử thế.
Du học là một công việc khó khăn, lâu dài, không thể xem nhẹ. Học để trở nên tốt và có ích là điều cần thiết.