Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 7

Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 7

Bạn đang xem bài viếtVăn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 7 tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Đối với người dân Việt Nam, cây tre đã trở thành một người bạn vô cùng thân thiết. Có thể khẳng định rằng, cây tre là một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Vì vậy, hôm nay, truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam.

Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 7
Cảm nghĩ về cây tre

Tài liệu bao gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu lớp 7, rất hữu ích. Mời bạn đọc tham khảo để biết cách nêu cảm nhận về cây tre. Nội dung chi tiết được giới thiệu ngay sau đây.

Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam

  • Dàn ý cảm nghĩ về cây tre Việt Nam
  • Biểu cảm về cây tre (8 mẫu)
  • Cảm nghĩ về cây tre (4 mẫu)

Dàn ý cảm nghĩ về cây tre Việt Nam

I. Mở bài

  • Cây tre loại cây gần gũi và gắn bó với nhiều người nông dân.
  • Cây tre mang ý nghĩa tượng trưng kiên cường, mạnh mẽ anh hùng của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.

II. Thân bài

1. Miêu tả đôi nét về cây tre

  • Thân tre gầy guộc, cao vút mang ý nghĩa cho con người mạnh mẽ, hiên ngang, bất khuất.
  • Lá tre mỏng manh.
  • Bên dưới gốc tre là những chồi măng vươn lên đứng đầy sức sống. Từ xưa trẻ đã được chế tạo thành bẫy tham gia chống quân xâm lược: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” tre người bạn thân thiết, người tham gia mọi trận đánh của dân tộc ta.
  • Cây tre chính là biểu tượng của sự mạnh mẽ bền bỉ, kiên cường mà bất cứ ai trong chúng ta cũng cần noi gương.

2. Cảm nghĩ về cây tre

  • Cây tre trong tuổi thơ của em, tre gần gũi với người dân và tỏa bóng mát cho dân làng.
  • Trẻ không chỉ tạo bóng mát mà những chồi măng còn dùng làm thực phẩm rất bổ dưỡng.
  • Cây tre rất nhiều công dụng và mọi bộ phận cây trẻ đều sử dụng có ích cho con người.

III. Kết bài

Cây tre như là một người bạn thân thiết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. Gìn giữ cây tre như một biểu tượng của sự mạnh mẽ kiên cường.

Biểu cảm về cây tre

Bài văn mẫu số 1

Cây tre đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Loài cây này mang vẻ đẹp với những phẩm chất tiêu biểu của con người Việt Nam: cần cù, kiên cường và thanh cao.

Cây tre sống ở đây cũng xanh tốt. Dáng tre mọc thẳng, màu tre tươi nhũn nhặn. Đến khi lớn lên, tre lại mang vẻ dẻo dai, cứng cáp. Có thể thấy được, cây tre mang vẻ đẹp thanh cao, kiên cường.

Cây tre đã gắn bó với cuộc sống của người nông dân như một người bạn thân thiết. Từ cuộc sống thường nhật đến trong lao động sản xuất. Đi khắp các làng quê Việt Nam, ta đều sẽ bắt gặp hình ảnh cây tre. Con người đã sử dụng cây tre để tạo ra những đồ vật đẹp đẽ, hữu ích cho cuộc sống của con người. Cái quạt tre giúp xua tan cái oi nóng ngày hè. Chiếc rổ, chiếc thúng làm bằng tre giúp đựng rau, đựng thóc. Cả giường tre mà bà vẫn nằm.

Cây tre còn là nơi gửi gắm nguồn vui của con người. Các em nhỏ vẫn thường chơi que chuyền đánh chắt bằng tre. Những người lớn tuổi hút thuốc với chiếc điếu cày tre là thấy khoan khoán. Những nhạc cụ dân tộc được làm bằng tre thật cũng độc đáo. Lúc còn nhỏ, mỗi lần về quê chơi, em và các bạn trong xóm lại rủ nhau ra đồng chơi. Chúng em thường lấy lá tre làm thuyền rồi thả trôi sông. Có khi cả nhóm ngồi dưới bóng tre chơi đánh chắt, ô ăn quan hay bịt mắt bắt dê….

Đặc biệt nhất, t re còn sát cánh với nhân dân ta trong những năm tháng chiến tranh. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Tre xung phong chiến đấu, không ngại hy sinh để bảo vệ cuộc sống của con người. Thế mới thêm yêu mến và trân trọng loài cây này hơn.

Ngày hôm nay, cuộc sống có thay đổi, khoa học – công nghệ phát triển. Khi mà sắt, thép và xi măng cốt sắt sẽ dần trở nên quen thuộc, sẽ thay thế một phần cho tre nứa. Nhưng nứa tre vẫn làm bóng mát, in dấu trong những câu ca dao, những lời hát. Tre đã trở thành một phần không thể thiếu với con người.

Có thể khẳng định rằng, cây tre có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người Việt Nam. Với riêng em, cây tre đã trở thành một phần kí ức tuổi thơ vô cùng tươi đẹp.

Bài văn mẫu số 2

Một trong những biểu tượng của làng quê Việt Nam chính là cây tre. Hình ảnh lũy tre xanh đã đi vào biết bao lời thơ, câu hát với những tình cảm thật tuyệt vời.

Từ bao đời nay, tre đã trở thành người bạn của nông dân Việt Nam. Tre sống ở đây cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Khi lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre mang vẻ đẹp thanh cao, giản dị, chí khí giống như con người Việt Nam,

Không chỉ vậy, tre còn xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc lao động. Tre giống như cánh tay của người nông dân. Cây tre vất vả mãi với người cối xay tre nặng nề quay. Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày. Tre buộc chặt những tình cảm chân quê. Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, tre cũng đã trở thành đồng chí, đồng đội. Nhân dân ta đã dùng tre làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh. Thậm chí tre còn “hy sinh để bảo vệ con người”. Sự gắn bó đó đã trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết khi phải trải qua hi sinh, mất mát.

Ngay cả trong cuộc sống hiện đại, chúng ta cũng không thể phủ nhận được tầm quan trọng của tre. Khi mà sắt, thép và xi măng cốt sắt sẽ dần dần trở nên quen thuộc, sẽ thay thế một phần cho tre nứa. Nhưng nứa tre vẫn làm bóng mát, in dấu trong những câu ca dao, những lời hát… Tre sẽ trở thành một dấu ấn tinh thần không thể thiếu.

Có thể thấy rằng, cây tre có một tầm quan trọng với con người Việt Nam. Mỗi người hãy trân trọng những giá trị mà cây tre đem lại.

Bài văn mẫu số 3

Tre – loài cây đã gắn bó với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Còn đối với riêng em, cây tre chứa đựng những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ.

Tre lúc nhỏ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình nón, trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé. Còn khi đã trưởng thành, thân tre gầy guộc, hình ống và nên trong rỗng, bên trong màu xanh lục, đậm dần xuống gốc.

Cùng với cây đa, bến nước và sân đình, cây tre đã trở thành một phần không thể thiếu của làng quê Việt Nam. Từ Nam ra Bắc, vùng quê nào bạn cũng có thể bắt gặp hình ảnh rặng tre xanh. Tre gắn bó với cuộc sống của con người. Những vật dụng được làm từ tre kể sao cho hết. Ngoài ra, măng tre được dùng làm thực phẩm, lá tre thì có thể làm thức ăn cho gia súc. Tre đi vào lời thơ, câu hát để trở thành kí ức tuổi thơ của mỗi người. Cây tre còn gắn bó với dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Gậy tre, chông tre đã xung phong chống lại kẻ thù. Tre anh hùng chiến đấu và hy sinh vì độc lập của dân tộc.

Tôi còn nhớ những lần được về quê, cùng các anh chị ra đồng chơi. Dưới lũy tre xanh chúng tôi ngồi chơi chắt chơi chuyền. Hay hình ảnh chiếc võng đu đưa bằng tre. Hay món canh măng mẹ nấu mỗi dịp Tết đến xuân về… Ngày hôm nay, khi đất nước ngày càng phát triển, cây tre không còn tồn tại nhiều nữa. Nhưng tre vẫn tồn tại trong kí ức của mỗi con người Việt Nam.

Tôi yêu lũy tre xanh – như yêu một phần của quê hương mình. Mong rằng cây tre sẽ luôn được trân trọng, yêu quý như từ ngàn đời xưa vẫn vậy.

Bài văn mẫu số 4

Trong tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, tác giả Thép Mới có viết: “Cây tre là người bạn thân của nông thôn Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam”. Quả thật cây tre đã vô cùng gắn bó trong cuộc sống của con người Việt Nam.

Ở mỗi làng quê Việt Nam, ta có thể bắt gặp hình ảnh những lũy tre làng. Chúng giống như những bức tường thành kiên cố bảo vệ xóm làng. Cây tre nhỏ nhắn với thân dài thẳng, được chia thành những đốt nhỏ đều nhau. Thân cây thường có màu xanh thẫm, các đốt thì có màu hơi xanh đậm hơi vàng. Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất, chúng có rất nhiều gai gồ ghề và thường rất nhỏ. Còn lá tre thì mỏng, nhọn, to chỉ bằng nửa lá xoài mà thôi, tuy lá tre trông mảnh khảnh nhưng rất dẻo dai. Cây tre không đứng riêng lẻ với nhau, mà nhiều cây đứng cùng nhau, tạo thành các lũy tre. Chính bởi vậy mà tre đã trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

Cây tre đã gắn bó với cuộc sống của con người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động và trong cả chiến đấu. Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Trong lao động, tre chính là cánh tay đắc lực của người nông dân. Trong cuộc sống hàng ngày, tre lại càng gần gũi hơn nữa. Từ chiếc nôi tre ta nằm lúc bé hay cái giường, tủ tre, cho đến cái cán cày cán cuốc, chiếc rổ bắt cá… Tre được dùng để đan thành mành làm trang trí, tre làm đũa ăn cơm, tre làm điếu cày, ấm trà, ống tiêu ống sáo… Từ trẻ con đến người già, từ phụ nữ đến nam giới, bất kì một người nào cũng đều đã từng sử dụng một vật dụng bằng tre. Còn trong chiến đấu, tre trở thành vũ khí dù thô sơ mà lại trở nên đắc lực nhất. Tôi vẫn còn nhớ mãi câu chuyện về chàng Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh đuổi giặc Ân thật đáng tự hào. Ngay cả trong hiện tại, gậy tre trông tre cũng giúp chúng ta đánh bại kẻ thù.

Hinh ảnh cây tre còn đi vào những bài thơ, câu hát với những tình cảm tốt đẹp nhất. Tre là niềm vui của tuổi thơ, là ký ức của người già. Đối với riêng tôi, cây tre đã gợi nhớ về những kỉ niệm nô đùa bên bạn bè trên con đê đầu làng, bên lũy tre xanh. Cả hình ảnh đứa em gái bé nhỏ nằm ngủ ngon lành trong chiếc nôi tre. Và nhớ đến hương vị đậm đà của món canh măng nấu với xương của mẹ mỗi dịp Tết đến… Cây tre gợi nhắc thật nhiều kỉ niệm tuyệt vời.

Có lẽ không một người dân Việt Nam nào là không biết đến cây tre. Dù ngày hôm nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì hình ảnh lũy tre làng vẫn còn in đậm trong tâm trí mỗi người con đất Việt như một tiếng gọi thiêng liêng của quê hương, đất nước.

Bài văn mẫu số 5

Ngày xửa ngày xưa, tôi chỉ là một mầm măng nhỏ được sinh ra tại một làng quê nghèo chất phác và mộc mạc. Từ lâu tôi đã thắc mắc không biết tổ tiên mình là ai và có từ khi nào. Chỉ biết rằng:

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh.

(Tre Việt Nam)

Thật đúng như vậy, họ hàng nhà tre chúng tôi đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.

Thuở ấu thơ, tôi chỉ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình bé nhỏ hình nón, trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé. Rồi tôi trưởng thành theo thời gian và trở thành một chàng tre đích thực. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ, bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lý. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.

Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng, cả nhà chúng tôi đung đưa tạo gió, bằng những cành tre che mát cho đàn con – những đàn con thân yêu. Đến thời kỳ mưa gió bão bùng, chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sống được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước.

Vì thế mà câu thơ này ra đời:

Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu.

(Tre Việt Nam)

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, vai trò của tôi được nêu cao trong việc làm vũ khí đánh giặc như gậy, chông, mũi tên, cung tên, góp phần mang lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam hôm nay. Trong cuộc sống của con người ngày hôm nay, tôi được xây dựng thành những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sống con người và đàn con thơ của họ. Trong bữa cơm hằng ngày của con người, tôi dược dùng để gắp thức ăn và con người gọi tên tôi là đũa, dùng tôi để gắp thức ăn không trơn trượt như đũa nhựa mà rất nhẹ và dùng gắp thức ăn rất dễ, lại rẻ tiền nữa! Sau mỗi bữa ăn, những người lớn dùng tăm để xỉa răng được làm từ tôi. Mỗi sáng các chị em phụ nữ trên tay xách chiếc giỏ mây đi chợ, hay các ông các bà nhâm nhi tách trà nóng trên bộ bàn ghế được đan bằng mây. Vì vậy, ở quê hương tôi có nhiều người làm tăm tre, đũa tre, đan giường hay đan giỏ mây, bàn ghế mây. Các chị tre có ngoại hình khá đẹp và ấn tượng thì được trồng làm cảnh. Ngoài ra, khi cuộc đời tôi đã hết, thân hình chỉ còn là một cây tre gầy còm, xơ xác và khô héo lụi tàn, tôi vẫn được mọi người sử dụng để làm chất đốt vì dễ cháy và ngọn lửa mạnh.

Các bạn đã nghe câu: “Tre già măng mọc” chưa? Đó là chu kỳ sống của họ nhà tôi đấy! Dòng họ nhà tre chúng tôi sẽ duy trì nòi giống cho đến tận mai sau để gắn bó với con người nhiều hơn, để dần đi vào tiềm thức của loài người, để được người đời nhớ mãi. Nhớ rằng tre như một người nông dân chất phác và mộc mạc, chịu thương chịu khó. Tre còn như một biểu tượng thiêng liêng cho một sức mạnh hùng hồn, sự bền bỉ và chịu đựng ngoan cường, tinh thần bất khuất trước kẻ thù của đất nước ta, dân tộc ta trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Thân hình yếu ốm của loài tre chúng tôi như nước Nam ta thời xưa chưa hùng mạnh nhưng lại tiềm ẩn một sức mạnh phi thường, đánh đổ được tất cả những bão tố, khó khăn để đi đến một thắng lợi vẻ vang và chính nghĩa.

Mai sau, mai sau, mai sau
Đất xanh xanh mãi xanh màu tre xanh.

(Tre Việt Nam)

Bài văn mẫu số 6

Bức tranh thanh bình của làng quê Việt Nam là cảnh sắc làng quê nông thôn với những biểu tượng đặc trưng mang đậm sắc thái dân tộc: mái đình cây đa, cánh cò, sáo diều, con trâu, luỹ tre. Dù đi đâu về đâu thì hình ảnh ấy vẫn sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam.

Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi

Cái hình ảnh “lắc lẻo” ấy cứ rung động nhẹ nhàng liên tiếp trong lòng tôi mãi mãi như lời ru của mẹ, nằm trên chiếc võng tre màu trà lên nước in bóng mẹ đã theo tôi đi hết cuộc đời. Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam, với nhiều phẩm chất cao quý, nó đã trở thành biểu tượng về con người, về đất nước Việt Nam.

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh

(Tre Việt Nam)

Không biết tre có từ đâu, nhưng từ thời Hùng Vương thứ Sáu tre đã đi vào truyền thuyết lịch sử chống giặc cứu nước. Tre tượng trưng cho người quân tử bởi thân hình gầy guộc thẳng đứng, cao vút, bất khuất vươn lên bầu trời cao. Lá tre mong manh. Còn manh áo cộc bao ngoài thì để dành cho măng, như người mẹ hiền âu yếm, hi sinh cho đứa con yêu bé bỏng. Dù gầy guộc nhưng tre vẫn biết sống chung biết kết nên luỹ nên thành, sự đoàn kết đó không sức mạnh gì tàn phá nổi. Những cây con nhọn hoắt, đâm thẳng, tự tin, vươn lên đầy sức sống, như sự tiếp sức cho thế hệ đi trước. Tre kiên gan bền bỉ vững chãi trong mọi môi trường sống dù bùn lầy, khô hạn, đất sỏi đất vôi bạc màu tre cũng xanh tươi mượt mà. Tre mộc mạc, cứng cáp và dẻo dai, thanh cao chí khí như người. Sự hoá thân ấy đã xoá bỏ ranh giới giữa con người với sự vật.

Tre là người bạn thân của con người, từ khi lọt lòng nằm trong chiếc nôi tre, lớn lên gắn bó với tre qua các trò chơi: tán hưng, ống thụt, làm diều, làm lồng đèn trung thu. Trưởng thành lao động dưới bóng tre những đêm trăng:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng được chăng?

(Ca dao)

Đến khi lấy vợ gả chồng thì cùng dựng mái nhà tranh có kèo cột tre, giường tre. Tre hiện diện trong đời sống con người từ ăn, ở, làm việc, trong phong tục, tập quán, dựng nhà dựng cửa từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi, tre với con người sống chết có nhau chung thuỷ. “Dưới bóng tre, thấp thoáng mái đình chùa cổ kính” là một nền văn hóa nông nghiệp – những nhọc nhằn của công việc giần, sàng, xay, giã đều có tre. Tre chẻ lạt gói bánh chưng khi xuân về, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu nỉ non dưới bóng tre xanh. Tre trong niềm vui trẻ thơ, trong chút khoan khoái của tuổi già, khăng khít ràng buộc như định sẵn như tơ duyên.

Tre đi vào đời sống tâm linh như một nét văn hoá. Từ những câu hát, câu thơ như xâu chuỗi tâm hồn dân tộc “bóng tre trùm mát rượi”, một lời tâm sự về mùa màng “Cánh đồng ta năm đôi ba vụ/Tre với người vất vả quanh năm”, hay một khúc hát giao duyên “Lạt này gói bánh chưng xanh/Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng”. Nhạc của trúc của tre là khúc nhạc đồng quê. Những buổi trưa hè lộng gió, tiếng võng tre kẽo kẹt bay bổng, xao xuyến bâng khuâng man mác như lời của đồng quê của cuộc sống thanh bình.

Tre trong sự nghiệp dựng nước cũng bất khuất, can trường với khí tiết ngay thẳng: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người” (Cây tre Việt Nam, Thép Mới). Tre lăn xả vào kẻ thù vào cái ác, dù cái ác rất mạnh, để giữ gìn non sông đất nước, con người. Tre là đồng chí của ta, tre vì ta mà đánh giặc. Kỳ lạ thay cái cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, về sự chịu đựng bền bỉ dẻo dai, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm xưa đánh đuổi giặc Ân cứu nước.

Mai này, khoa học kĩ thuật có phát triển đến đâu, cũng không thể thay thế hình ảnh cây tre trong tâm hồn của con người Việt Nam. Nó trở thành cây tre tinh thần là bóng mát, là khúc nhạc tâm tình, còn là biểu tượng cao quý cho phẩm chất cốt cách con người Việt Nam.

Bài văn mẫu số 7

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh

(Tre Việt Nam)

Hình ảnh thân thương của những cây tre đã đi vào rất nhiều trong thơ ca Việt Nam. Bởi tre đã quá thân thuộc và gần gũi vơi con người. Đi đâu trên khắp thôn quê Việt chúng ta đều bắt gặp những lũy tre xanh bát ngát.

Tre thường mọc gần nhau theo khóm tạo thành những lũy tre xanh rì rào trong gió. Từ bao đời nay, tre mọc luôn đứng cạnh nhau chứ không hề riêng lẻ. Nó cũng giống như tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam vậy. Thân tre có nhiều đốt, gầy guộc là vậy nhưng gió thế nào cũng không thể nào quật ngã được. Dù bất cứ chỗ nào, đất có cằn cỗi bao nhiêu thì tre vẫn cứ vươn lên xanh tốt giống như tinh thần vươn lên trước mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống của người dân lao động. Dưới nhưng cây tre to khỏe luôn là những mầm măng non nhú lên nhọn hoắt. Rồi theo ngày tháng những màn măng nhọn ấy sẽ lớn dần thành một cây tre trưởng thành, giống như con người từ bé tới lớn vậy.

Tre gắn liền với tuổi thơ của mỗi đứa trẻ làng quê bởi lẽ ngay từ khi còn nhỏ, những đứa trẻ đã được nghe câu chuyện cổ tích “cây tre trăm đốt” của bà, của mẹ. Rồi mỗi mỗi buổi chiều hè, trẻ con trong xóm thường rủ nhau chơi trốn tìm, nhảy dây dưới bụi tre làng. Thỉnh thoảng lũ trẻ còn hái những lá tre xanh gấp lại thành những que kem chơi đồ hàng.

Từ bao đời nay, tre đã có những đóng góp không nhỏ vào đời sống của con người Việt Nam. Con người sinh ra đã được nằm trong chiếc nôi làm bằng tre nứa, lắng nghe tiếng ru ầu ơ của mẹ mà lớn khôn. Tre dùng để dựng nhà – nơi tổ ấm để về, nơi che nắng che mưa của mỗi người. Tre được mọc thành lũy trải dài giúp giữ đất ngăn không cho đất lở bên sông, giữ cho đê vững chắc trong những ngày giông bão. Không những thế, nhìn quanh ta có biết bao nhiêu vật dụng làm từ tre nứa. Đó là đôi đũa tre, tủ tre hay những cái rổ cái giá. Tất cả đều làm từ loài cây thân thuộc. Tre cũng theo các chị các mẹ mỗi buổi chợ bởi ai cũng mang theo vật quen thuộc như chiếc giỏ chiếc làn tre. Những mảnh tre mềm được đan thành chiếc gàu tát nước giúp ích cho các bác nông dân. Ra các bờ mương, ta lại bắt gặp các bác đánh dậm bằng những chiếc chũm tre. Về nhà thì hình ảnh chiếc bu gà đan từ tre lại hiện diện thân thương ở góc sân vườn. Đâu đâu ta cũng thấy sự hiện diện của trẻ ở đó. Thật gần gũi như người bạn của người dân Việt. Mỗi buổi chiều mát, còn gì thích thú hơn khi các cụ già mang chiếc chõng tre ra ngồi đàm đạo, đánh cờ rồi nhấp một ngụm trà thơm? Thỉnh thoảng lại có cụ rít một hơi thuốc lào từ chiếc điếu cày làm bằng tre hay có cụ ngồi thổi một bản nhạc sáo làm từ tre trúc. Đơn giản như vậy đấy, mà tre gắn bó và mang lại cả niềm vui cho những cụ già trong làng.

Tre không chỉ mang lại bao lợi ích trong đời sống con người mà cò gắn bó máu thịt với nhân dân từ trong chiến đấu bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc. Khi đất nước có giặc đến xâm phạm, toàn dân lại dốc sức dốc lòng hăng hái tham gia kháng chiến. Khi ấy thì những chiếc gậy tre, chông tre là những vũ khí tuy thô sơ nhưng lại cực kỳ hữu ích. Quân thù dù có bom đạn, có sắt thép thì vẫn phải khuất phục dưới sự nỗ lực chiến đấu của gậy tre,chông tre. Nhà văn Thép Mới đã từng viết trong “Cây tre Việt Nam” thật chính xác sự gắn bó của tre trong cách mạng: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà xanh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người”.

Tre lớn lên với con người Việt, gắn bó với đời sống Việt rồi lại cùng người dân Việt Nam đứng lên chống lại áp bức. Tre không khác gì một người bạn của con người và cũng là hiện thân của đức tính con người Việt Nam anh hùng, bất khuất.

Bài văn mẫu số 8

Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam. Hình ảnh cây tre quá gần gũi và thân thuộc trong cuộc sống của những con người ở làng quê.

Với những bạn ở thành phố có lẽ cũng hiếm có cơ hội để được nhìn thấy cây tre thật, mà thường chỉ được biết thông qua sách vở, tivi, sách báo… Còn ở làng quê, hầu như nơi nào cũng có tre. Cây tre gắn bó với làng quê Việt Nam đã hàng trăm nghìn năm nay như một điều hiển nhiên. Không biết tre mọc từ bao giờ nhưng khi tôi lớn lên đã xuất hiện những rặng tre kiên cố, uy nghiêm bao quanh làng.

Tre có màu xanh lục, đậm dần khi xuống gốc, lá rất xanh và nhỏ. Tre lớn lên từ búp măng, măng non nhọn hoắt, tràn đầy sức sống đâm thẳng lên mặt đất mà không lo sợ mưa gió bão bùng, thế mới biết được sức sống phi thường của loài cây này. Cây tre không đơn lẻ một mình mà đoàn kết thành bụi, rặng hay khóm tre. Thân tre gầy guộc, ống rỗng bên trong, ngoài trơn láng, rễ tre bám chắc vào đất, dù thân có gãy thì rễ vẫn sống để lên búp măng mới.

Có lẽ, ngoài cỏ dại thì tre là loài cây dễ sống nhất, ở bất kỳ đâu. Dù “đất sỏi, đá vôi bạc màu”, đất cằn cỗi nghèo nàn dinh dưỡng thì tre vẫn vươn mình trước gió, hiên ngang với đất trời. Hình tượng đó được ví như sức sống của những con người Việt Nam, kiên cường, bất khuất không ngại gian khổ, khó khăn để giành lấy tự do, giành lấy quyền sống chính đáng cho mình. Và là biểu tượng cho những con người siêng năng cần cù, chăm chỉ làm lụng, chịu thương chịu khó, là tính cách đoàn kết thủy chung, chở che đùm bọc lẫn nhau.

Hình ảnh bụi tre gắn liền với cuộc sống và con người thôn quê, cùng với cây đa, giếng nước, cây trẻ trở thành một thứ “đặc sản” của làng quê Việt Nam. Từ Nam ra Bắc, vùng quê nào bạn cũng có thể bắt gặp hình ảnh rặng tre xanh mát đung đưa vui đùa cùng gió. Bóng tre dang rộng tỏa bóng mát trưa hè, bác nông dân có nơi để ngả lưng chợp mắt, những chú trâu có chỗ nghỉ chân mà nhởn nhơ gặm cỏ….

Tre gần gũi, thân thuộc, đã, đang và sẽ vẫn trợ giúp cho đời sống của chúng ta. Từ chiếc nôi tre ta nằm lúc bé hay cái giường, tủ tre, cho đến cái cán cày cán cuốc, chiếc rổ bắt cá… Tre được dùng để đan thành mành làm trang trí, tre làm đũa ăn cơm, tre làm điếu cày, ấm trà, ống tiêu ống sáo… Từ trẻ con đến người già, từ phụ nữ đến nam giới, chắc chắn ai cũng đã sử dụng đồ dùng nào đó được làm bằng tre. Ngoài ra, măng tre được dùng làm thực phẩm, lá tre thì có thể làm thức ăn cho gia súc. Dù không phải là vật liệu quý hiếm có giá trị đa năng nhưng tre thực sự rất quan trọng đối với đời sống của con người.

Cây tre vốn đã in sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, tre gắn với văn hóa truyền thống và lịch sử đấu tranh giành hòa bình. Trong tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, Thép Mới có viết: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người! Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Hay ngay trong truyền thuyết Thánh Gióng, thì cây tre cũng đã được sử dụng như một loại “vũ khí” để tiêu diệt quân thù.

Tre mộc mạc và gần gũi trong từng hơi thở, nhịp sống của con người. Nó cũng nhẹ nhàng đi vào văn thơ nhạc họa như một điều tất yếu:

Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!

(Tre Việt Nam)

Mỗi buổi tối mùa hè, dưới chiếc võng quen thuộc, được nghe tiếng lá tre xào xạc trong gió, tôi bỗng thấy lòng bình yên lạ thường, nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ trong khi chúng vẫn mải miết đùa vui. Quả là cây tre vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người dân Việt Nam.

Cảm nghĩ về cây tre

Bài văn mẫu số 1

Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Tre cũng có những phẩm chất đáng quý như con người vậy.

Tre có từ bao giờ cũng không ai biết nữa, nhưng từ thời Hùng Vương thứ Sáu đã đi vào truyền thuyết lịch sử chống giặc cứu nước. Tre tượng trưng cho người quân tử bởi thân hình gầy guộc thẳng đứng, cao vút, bất khuất vươn lên bầu trời cao. Lá thì mong manh với “manh áo cộc bao ngoài thì để dành cho măng”. Tre như người mẹ hiền âu yếm, hy sinh cho đứa con yêu bé bỏng. Dù gầy guộc nhưng tre vẫn biết sống chung biết kết nên luỹ nên thành, sự đoàn kết đó không sức mạnh gì tàn phá nổi. Những cây con thì nhọn hoắt, đâm thẳng và vươn lên tràn đầy sức sống. Tre kiên gan bền bỉ vững chãi trong mọi môi trường sống dù bùn lầy, khô hạn, đất sỏi đất vôi bạc màu tre cũng xanh tươi mượt mà. Tre mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai và thanh cao.

Từ lâu cây tre đã trở thành người bạn thân của con người. Tre hiện diện trong đời sống con người từ ăn, ở, làm việc, trong phong tục, tập quán, dựng nhà dựng cửa… Từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi, tre với con người sống chết có nhau chung thuỷ.

Tre cũng tạo nên cảm hứng sáng tác trong nhiều tác phẩm thơ văn. Từ những câu hát, câu thơ như xâu chuỗi tâm hồn dân tộc “bóng tre trùm mát rượi”, một lời tâm sự về mùa màng “Cánh đồng ta năm đôi ba vụ. Tre với người vất vả quanh năm” hay một khúc hát giao duyên “ Lạt này gói bánh chưng xanh. Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng”. Nhạc của trúc của tre là khúc nhạc đồng quê. Những buổi trưa hè lộng gió, tiếng võng tre kẽo kẹt bay bổng, xao xuyến bâng khuâng man mác như lời của đồng quê của cuộc sống thanh bình.

Trong cuộc chiến giữ nước, tre cũng bất khuất, can trường với khí tiết ngay thẳng. Tre cùng với con người đã lăn xả vào kẻ thù vào cái ác, dù cái ác rất mạnh, để giữ gìn non sông đất nước, giữ tính mạng cho con người. Tre là đồng chí của ta, tre vì ta mà đánh giặc.

Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, các vật dụng làm từ tre cũng không nhiều nữa, đầu làng ít thấy thấp thoáng lũy tre xanh, con người cũng ít phải ngồi hóng mát dưới gốc tre nữa. Tuy vậy cây tre mãi mãi vẫn tồn tại trong tâm trí người dân Việt, là biểu tượng không bao giờ thay đổi của dân tộc ta.

Bài văn mẫu số 2

Từ bao đời nay, cây tre đã trở thành một biểu tượng của dân tộc Việt Nam:

Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

(Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)

Không biết từ bao giờ, tre đã gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam. Từ câu chuyện cổ tích “Cây tre trăm đốt” đến “Thánh Gióng” nhổ tre đánh tan giặc Ân.

Khi con nhỏ, tre chỉ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình bé nhỏ hình nón, trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé. Đến khi trưởng thành tre vươn lên cao lớn. Thân tre gầy guộc, hình ống và nên trong rỗng, bên trong màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Lá tre mỏng manh, có màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tre thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.

Xuất hiện trong bài thơ “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy, hình ảnh cây tre tượng trưng cho những phẩm chất của con người Việt Nam:

Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

Đó là sức sống mãnh liệt của một dân tộc đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ.

Tre cần cù, chịu khó giống như người nông dân Việt Nam quanh năm lam lũ vất vả lao động:

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù

Tre còn tượng trưng cho tinh thần yêu thương, đoàn kết của dân tộc Việt Nam:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi

Không chỉ vậy, tre cũng giống như một người bạn đi trong cuộc sống của con người. Từ thuở còn thơ, khi vừa mới chào đời, chúng ta được nằm trong chiếc nôi tre. Khi lớn dần lên, chúng ta được chơi những trò chơi làm từ tre, sử dụng những vật dụng được làm từ tre. Không chỉ cung cấp những giá trị vật chất, tre còn đem đến những giá trị tinh thần. Dưới bóng tre xanh người dân lao động ngồi nghỉ ngơi, tán gẫu sau những buổi làm đồng vất vả. Tre xuất hiện những tác phẩm văn học, hội họa, kiến trúc; tre xuất hiện ở những lễ hội truyền thống… Tre đã hiện diện trong đời sống của con người mọi lúc mọi nơi.

Tre còn gắn bó với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong “Cây tre Việt Nam”, nhà văn Thép Mới có viết: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người”. Vũ khí được làm bằng tre (gậy tre, chông tre) tuy thô sơ nhưng đã giúp ta đánh bại kẻ thù…

Hôm nay, khi cuộc sống ngày hiện đại, tre dường như không còn nhiều nữa. Nhưng trong kí ức của nhiều người, tre vẫn chứa đựng nhiều kỷ niệm đẹp đẽ. Đối với riêng tôi, tre đã gợi về những kỉ niệm tuổi thơ vui đùa bên bạn bè. Những trò chơi đậm chất thôn quê chứa đựng cái hồn nhiên của trẻ thơ.

Tre – trong đời sống của con người Việt Nam dường như đã trở thành một kí ức thật đẹp đẽ.

Bài văn mẫu số 3

Có lẽ cây tre đã vô cùng quen thuộc đối với cuộc sống của con người Việt Nam. Đối với tôi cũng vậy, bởi cây tre gắn bó với thật nhiều nhiều kỉ niệm đẹp của tuổi thơ.

Khi còn nhỏ, tre chỉ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình nón, trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé. Đến khi trưởng thành tre vươn lên cao lớn. Thân tre gầy guộc, hình ống và nên trong rỗng, bên trong màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Lá tre mỏng manh, có màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tre thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.

Hình ảnh bụi tre gắn liền với cuộc sống và con người thôn quê, cùng với cây đa, giếng nước, cây tre đã trở thành một thứ “đặc sản” của làng quê Việt Nam. Từ Nam ra Bắc, vùng quê nào bạn cũng có thể bắt gặp hình ảnh rặng tre xanh mát đung đưa vui đùa cùng gió. Dưới bóng trẻ, bác nông dân có nơi để ngả lưng chợp mắt sau buổi làm đồng vất vả, những chú trâu có chỗ nghỉ chân mà nhởn nhơ gặm cỏ, những chú chim nhỏ có nơi đậu lại để cất tiếng hót vang…

Tre gần gũi trong cuộc sống của con người. Từ chiếc nôi tre ta nằm lúc bé hay cái giường, tủ tre, cho đến cái cán cày cán cuốc, chiếc rổ bắt cá… Tre được dùng để đan thành mành làm trang trí, tre làm đũa ăn cơm, tre làm điếu cày, ấm trà, ống tiêu ống sáo… Từ trẻ con đến người già, từ phụ nữ đến nam giới, chắc chắn ai cũng đã sử dụng đồ dùng nào đó được làm bằng tre. Ngoài ra, măng tre được dùng làm thực phẩm, lá tre thì có thể làm thức ăn cho gia súc. Tôi vẫn nhớ đến hương vị đậm đà của món canh măng nấu với xương của mẹ mỗi dịp tết đến.

Yêu biết bao cây tre của làng quê Việt Nam. Ngày hôm nay, khi đất nước ngày càng phát triển, cây tre không còn tồn tại nhiều nữa. Nhưng chắc chắn, nó vẫn sẽ còn mãi trong ký ức của mỗi người dân Việt Nam.

Bài văn mẫu số 4

“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?”

(Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)

Cây tre có một vai trò quan trọng trong đời sống của con người Việt Nam. Đã từ lâu, cây tre trở thành biểu tượng cho dân tộc Việt Nam.

Cây tre với thân với thân dài thẳng, được chia thành những đốt nhỏ đều nhau. Thân cây có màu xanh thẫm. Mỗi đốt có màu đậm hơn hoặc ngả vàng. Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất. Lá tre khá mỏng, dài. Tre thường mọc thành từng bụi, hay còn gọi là lũy tre. Hình ảnh lũy tre xanh đã quá đỗi quen thuộc ở những làng quê Việt Nam.

Cây tre với con người như một người bạn tri kỷ. Bóng tre trùm lên âu yếm thôn xóm. Tre gắn bó trong nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ. Ngược về quá khứ, tre đã đồng hành cùng người dân Việt Nam trong chiến đấu. Tre cũng mang trong mình những phẩm chất của một người hùng bất khuất, kiên cường. Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương.

Cây tre còn đi vào lời thơ, câu hát. Với tôi, cây tre gợi về kỉ niệm gắn bó với quê hương. Hồi còn thơ bé nằm trong chiếc nôi tre. Dưới bóng tre xanh, chúng tôi cùng nhau nô đùa nghịch ngợm. Những chiều thơ thẩn ngoài đồng lấy lá tre để chơi đồ hàng. Hay cả những trò chơi đánh chuyền, đánh thẻ được làm bằng thân tre… Tất cả đã đem đến thật nhiều kỉ niệm đẹp đẽ về cây tre.

Có thể khẳng định rằng, cây tre Việt Nam là người bạn thân thiết của chúng ta. Tre gợi về những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong kí ức mỗi người Việt Nam.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về cây tre Việt Nam Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 7 tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Xin Chân thành cảm ơn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *