Vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông

Vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông
Bạn đang xem: Vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Giới thiệu nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Bài ký Tôn vinh sự đẹp đẽ của sông Hương và Huế, với những kỷ niệm lịch sử và nền văn hóa đặc trưng của địa phương. Tác giả xem sông Hương là biểu tượng về vẻ đẹp của Huế và miêu tả sự đa dạng của nó khi đi qua các vùng khác nhau.

Sông Hương từng là dòng sông bảo vệ ranh giới, biên cương tổ quốc thời Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi đến cách mạng tháng tám, chiến dịch mậu thân năm 1968….

Tác giả đã ngắm nhìn và ví sông Hương như một cô gái Huế, từng có lúc là một cô gái man di đầy phóng khoáng và hoang dại, nhưng nhìni chung lại mang hình ảnh là một thiếu nữ đầy mạnh mẽ mà tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều đục. “Đó cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…”.

Với sự tinh tế và một tâm hồn nghệ sỹ có một nền tảng kiến thức văn hóa đa dạng về Huế, tác giả đã viết ra được một bài kí tuyệt vời về cái đẹp của dòng sông Hương và Huế. 

Hoàng Phủ Ngọc Tường có một tình cảm gắn bó với xứ Huế mộng mơ và dòng chảy êm đềm của sông Hương. Có lẽ ông có một mối liên hệ đặc biệt với mảnh đất và con người nơi đây nên văn của ông thường giản dị, mộc mạc mà lãng mạn, đa cảm. Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông này của ông được đánh giá là thành công khi khắc họa sinh động từng đường nét, vẻ đẹp đa chiều của sông Hương. Đó là một vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng, nên thơ và rất cổ kính.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết theo thể loại hồi ký, một thể loại có thể ghi lại những cảm xúc bất chợt, những suy nghĩ và những cảm xúc sâu sắc nhất. Có lẽ thể loại này chính là thứ khiến bài viết chân thành ăn sâu vào lòng người đọc đến vậy. Vẻ đẹp của sông Hương dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường được hiện lên một cách ấn tượng, một vẻ đẹp làm người đọc ngẩn ngơ, say đắm.

Sông Hương là con sông “duy nhất” chảy qua thành phố Huế nên nó mang một vẻ đẹp rất riêng mà không một dòng sông nào có được. Dường như Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tự hào về điều này, tự hào về tình yêu sông Hương sâu nặng của mình.

Vẻ đẹp của sông Hương ẩn chứa dưới ngòi bút tinh tế và một tình yêu nồng nàn càng làm cho người đọc mê mẩn. Sông Hương có thể được nhìn từ nhiều góc độ, từ chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Nhưng dù nhìn từ góc độ nào, sông Hương vẫn mang một vẻ đẹp riêng rất Huế.

Ở thượng nguồn, sông Hương mang một vẻ đẹp mà không nơi nào sánh được. Đó là hình ảnh “cô gái hoang dại tự tại” với tâm hồn “thoải mái trong sáng”. Vẻ đẹp ấy được ngôn ngữ tác giả ưu ái làm cho nó chân thật nhất có thể đi vào lòng người đọc. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vẽ từng đường nét mê hồn, sông Hương như “bản hùng ca rừng xưa” vang vọng, dữ dội nhưng cũng có lúc “nhẹ nhàng say sưa giữa dặm dài lung linh sắc đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ một loài hoa dại màu đỏ đơn sơ, cô độc giữa núi rừng đã phần nào lột tả được vẻ đẹp bình dị mà ám ảnh của sông Hương. Như vậy, vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn đẹp mê hồn, hoang sơ mà không thiếu nét tinh tế.

Sông Hương được mệnh danh là dòng sông của một thành phố duy nhất, chỉ đến Huế và thuộc về Huế, như một định mệnh ngầm đã có từ lâu đời. Vẻ đẹp của sông Hương là sự phản chiếu của một di sản văn hóa phong phú, đầy thăng trầm nhưng cũng dịu dàng và quyến rũ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví sông Hương như một “cô gái Huế dịu dàng, thùy mị, ăn nói nhỏ nhẹ”. Ở Huế có biết bao dòng sông thơ mộng.

Khi dòng sông Hương từ thượng nguồn trở về thành phố xinh đẹp, nó trở nên lãng mạn và mê hoặc. “Người con gái ấy” đã “vượt qua vực sâu thăm thẳm dưới chân núi Ngọc Trản, để biến mặt nước thành một màu xanh thăm thẳm, trầm mặc như triết lý, trong trẻo như thơ ca… cho đến khi nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang vọng của những chú gà trống, từ đó sông Hương tỏa sáng rực rỡ như một mặt trời mới, uốn một vòng cung dịu dàng cho đến khi nó đối mặt với thành phố, đường cong đó làm cho nó trở nên mềm mại như đáp lại lời đồng ý không thành lời của tình yêu”. Một đoạn văn nhẹ nhàng, tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi trở về thành phố. Những dòng thơ mềm mại và mê hoặc của sông Hương thực sự khiến người đọc bị mê hoặc. Với lối viết gần gũi mà chân thành, tác giả đã đi sâu vào lòng người đọc’

Sông Hương như một “nàng thơ” lạc vào phố, lạc vào những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Sông Hương cũng là dòng sông chứng kiến ​​biết bao đổi thay của xứ Huế, của những thăng trầm lịch sử “rạng ngời kinh thành Phú Xuân”, “dòng sông thời gian ngân vang, lịch sử viết giữa cỏ xanh lá biếc… “. Bởi vậy, sông Hương không chỉ tồn tại như vậy mà nó còn là chứng nhân của lịch sử đất nước, của những năm tháng không thể nào quên.

Từ một dòng sông hoang sơ tự tại, sông Hương đã trở nên dịu dàng, tài hoa và đầy cương nghị.

Có lẽ đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chung, đối với người dân xứ Huế nói chung, sông Hương là biểu tượng đẹp nhất tạo nên vẻ đẹp của Huế trong suốt hàng ngàn năm lịch sử.

Bằng ngòi bút tinh tế, cảm xúc chân thành và trái tim yêu thương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên một bức tranh sông Hương tuyệt đẹp. Một vẻ đẹp rất riêng, dịu dàng và đậm chất Huế khiến người đọc chỉ muốn một lần được đặt chân đến.

4. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy cơn lốc vào những đáy vực thẳm”, vừa mang vẻ đẹp “dịu dùng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Tính lưỡng thể của dòng sông Hương ở thượng nguồn vừa “phóng khoáng và man dại” như một nửa cuộc đời cô gái Di-gan, biểu lộ “sức mạnh bản năng ở người con gái” vừa mang sắc đẹp “dịu dàng và trí tuệ trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

Dòng chảy của sông Hương ở thượng nguồn là “cuộc hành trình gian truân” không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

Nguyễn Tuân đã từng tả tiếng thác sông Đà “như oán trách… như van xin… như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng “đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”… Đó là những ấn tượng vô cùng sâu sắc mà bác Nguyễn đã gieo vào lòng ta khi đọc bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thật tài hoa khi ông đã sáng tạo nên những liên tưởng, những so sánh, ẩn dụ và nhân hóa miêu tả vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn.

Tác giả đã nhắc khẽ mọi người “nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó… sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua…”. Suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thía.

Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như người con gái đẹp đang “ngủ mơ màng” được đánh thức bởi “người tình mong đợi”. Sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục” khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình – thành phố tương lai của nó. Nó đã “vòng những khúc quanh đột ngột”. Nó đã “uốn mình theo những đường cong thật mềm…”. Con sông Hương được nhân hóa như đang làm duyên, đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng Nam Bắc theo điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản; lúc thì chuyển hướng sang Tây Bắc vòng qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán. Rồi nó “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biều, Lương Quán, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo,… được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác thể hiện những kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc có lúc ngỡ là ông đã từng nhiều năm tháng du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.

Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như Tố Hữu đã cảm mến thốt lên: “Hương Giang ơi, dòng sông êm – Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình”. Ông nói về sắc nước của dòng sông Hương là “xanh thẳm”, dáng hình của nó “mềm như tấm lụa”, sự tấp nập rộn ràng của nó là “những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” dưới ánh phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.

Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của các vua chúa nhà Nguyễn, giữa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lí, như cổ thi”… Tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa, gợi lên không khí, khung cảnh “u tịch” và “trầm mặc” của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần đến thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:

“Bốn bề núi phủ mây phong,
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên”.

Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước sông Hương trở nên mơ màng, “phẳng lặng” trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa “bát ngát tiếng gà” của những xóm làng trung du.

Một lần nữa ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng bồi hồi. Những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa, về thi ca được tác giả vận dụng tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ.

Đến vùng ngoại ô Kim Long, giữa những biền bãi xanh biếc, sông Hương “vui tươi hẳn lên” khi nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố “in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Cồn Giã Viên và Cồn Hến ở đâu và cuối thành phố như hai cù lao xanh đã làm cho dòng sông Hương uốn cong “mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Tác giả liên tưởng đến sông Seine của Pari, sông Đa- nuýp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương là nó “nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”; nó đã giữ cho Huế “trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Những nhánh sông đào mang nước Hương Giang tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây cừa cổ thụ, những ánh lửa chài “lập lòe” nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương,… đã làm cho cố đô Huế tựa như “một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”.

Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng, so sánh vé lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Xanh Pê-téc-bua nước Nga với sông Hương. Hình ảnh con chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua trước cung điện Mùa Đông như một khám phá nhiều ngộ nghĩnh; tác giả mơ ước được “hóa làm con chim nhỏ co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển”. Con sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và Cồn Hến đã làm cho nó “trôi đi chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.

Nhìn những dòng sông, những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nêu lên suy ngẫm về dòng chảy cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về “điệu chảy lặng lờ” của sông Hương, quý trọng coi đó là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Hình ảnh “hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về”, và sự “ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng” đã nói lên thật thơ vẻ đẹp mộng mơ của sông Hương – bài thơ trữ tình của cố đô Huế.

Sự ngập ngừng vấn vương ấy là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đó, Thu Bồn đã có lần rung cảm:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ lên những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ; mà trong đó mỗi so sánh, nhân hóa và liên tưởng về dòng chảy sông Hương đoạn đi qua Huế tựa như hoa trái ngọt thơm đã thể hiện một bút lực và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông đã dành cho sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt.

Đoạn nói về sông Hương rời khỏi Kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình. Ông đã nhân hóa sông Hương “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ông cho biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang… Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp “một phiến trăng sầu” trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh. Sông Hương rời khỏi Kinh thành “lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”; phải chăng khúc lượn này, sông Hương “có cái gì lạ với tự nhiên và rất giống con người “, Tác giả cho rằng đó là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm tình tự; ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói về sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt chung thủy của lứa đôi. “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”, lời thế của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa, lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.

Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ, đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với những con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với những bài ca điệu hò dân gian dịu ngọt.

Tác giả bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc, tốt đẹp ấy.

Từ tình yêu dành cho sông Hương, dành cho xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện được nhiều vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Tất cả đã được ông thể hiện trong một lối viết tao nhã, hướng nội. Người đọc đã nhận ra được tài năng cũng như tình cảm của nhà văn đối với quê hương, đất nước.