1. Dàn ý Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu một vài nét về tác giả, tác phẩm.
– Dẫn dắt vô đề, trích dẫn khổ thơ cuố
1.2. Thân bài:
– Hình ảnh của những chiếc xe chở quân lương, vũ khí: xe không có kính; không có mui xe; không có đèn xe; thùng xe bị xước.
– Biện pháp nghệ thuật
+ Điệp ngữ: không có
+ Liệt kê: kính, đèn, mui, thùng
=> Câu thơ chân thực thể hiện sự tàn phá của chiến tranh và tổn thất nặng nề mà chúng mang lại.
– Tinh thần bất khuất, ý chí mạnh mẽ của những người chiến sĩ lái xe:
+ xe vẫn tiến lên: thể hiện tin thần lạc quan và đầy tự tin, những người lính đã vượt qua mọi khó khăn, giữ vững tay lái cho bánh xe lăn đều
– Hình ảnh “trái tim”:
+ Là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, đó là tình yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc; là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
=> Chính tình yêu, sự quả cảm của người lính là yếu tố quan trọng làm nên thành công cho kháng chiến
Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ:
+ Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị
+ Hình ảnh tả thực, nhưng có sự chọn lọc
+ Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ
1.3. Kết bài:
– Khái quát lại nội dung chính đoạn thơ cuối và nêu cảm nhận của em về nó.
2. Bài mẫu phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất:
Phạm Tiến Duật là một nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông rất cuốn hút người đọc bởi tính chân thật, sáng tạo và dũng cảm. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh mẽ với độc giả bởi hình ảnh những chiến sĩ lái xe kiên cường, táo bạo, không ngại khó khăn, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của họ.
Hình ảnh chiếc xe bị bom đạn Mỹ phá đến biến dạng càng góp phần khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm, hiên ngang vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Ở hai câu đầu của khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã hiện lên với một hình thù đầy chiến tích:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe cỏ xước.
Phạm Tiến Duật đã giải thích cho người đọc biết rằng những chiếc xe của những người chiến sĩ đang phải đương đầu với những khó khăn, thiếu thốn vì chiến tranh. Bom đạn đã làm cho những chiếc xe trở nên tàn tạ và trơ trụi hơn, bộ phận kính và mui xe đã bị phá hủy. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn ác liệt hơn, khiến cho những chiếc xe không chỉ mất kính và mui xe mà cả đèn xe, một bộ phận rất quan trọng, đặc biệt là khi lái xe trên con đường Trường Sơn gập ghềnh, đầy những hố bom và mối nguy hiểm trong ban đêm. Bên cạnh đó, những chiếc xe không có mui che chắn còn khiến thùng xe đầy nước khi trận mưa đổ xuống.
Câu thơ tuy thể hiện được sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng đây không phải là lời ca thán, bi ai. Bằng giọng thơ ngang tàng pha chút hóm hỉnh, giọng điệu tự nhiên, rất lính tráng, nhà thơ đã mang được vào trong thơ ca chất trẻ trung, sự hồn nhiên, yêu đời của người chiến sĩ cách mạng:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Không có kính, không đèn, không có cả mui, điệp từ “không” được nhấn mạnh đến ba lần đã gợi sự khó khăn của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Thế nhưng, xe vẫn bon bon lăn bánh trên con đường ấy, bất chấp tất cả mọi hiểm nguy “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Câu thơ như lột tả ý chí chiến đấu vì miền Nam, vì Tổ quốc của những người lính lái xe quả cảm. Từ “vẫn chạy” cho thấy sự kiên cường, vững tin, dù phải chịu bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn, họ cũng không lùi bước. Còn cụm từ “vì miền Nam phía trước” toát lên niềm tin vào hòa bình, thống nhất, là sự thể hiện mạnh mẽ tình yêu quê hương, đất nước của những người lính lái xe, nó dường như đã ăn sâu vào con người các anh.
Câu thơ cuối của bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một cách kết thúc đầy ý nghĩa và cảm động. “Chỉ cần trong xe có một trái tim” là thông điệp ý nghĩa, cho thấy rằng tình yêu, sự kiên cường, và sự quyết tâm của người lái xe đã giúp họ vượt qua tất cả những khó khăn và thử thách trên đường Trường Sơn. Trái tim của họ là nguồn động lực để tiếp tục chiến đấu vì miền Nam, vì Tổ quốc. Điều này cũng như khẳng định rằng, bất kể những khó khăn xảy ra, tình yêu quê hương, tình yêu đất nước luôn tồn tại mãi trong trái tim mỗi người con Việt Nam. Đây là một câu thơ biểu hiện sự hiến dâng trọn vẹn của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy “mưa bom bão đạn”: “Chỉ cần” có một “trái tim”, chỉ cần trái tim còn nhịp đập, chỉ cần còn sống, còn một hơi thở cuối cùng các anh vẫn chiến đấu không chùn bước. Hình ảnh “trái tim” chính là hình ảnh ẩn dụ về người lính lái xe mà trái tim các anh đã ngấm sâu lý tưởng cách mạng, lý tưởng về một Tổ quốc thống nhất, tươi đẹp. Điều này khẳng định rằng khó khăn và gian khổ ngày càng tăng, nhưng nhiệm vụ đánh giặc vẫn là trên hết. Không có khó khăn nào hay kẻ thù nào cản được xe ta đi. Đơn giản là bởi trong xe có một trái tim của người chiến sĩ lái xe anh hùng.
Nhà thơ đã khai thác hiệu quả nghệ thuật đối lập giữa “không” và “có” giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài xe và bên trong chiếc xe không kính, không đèn, không mui. Để bất ngờ sáng lên hình tượng trái tim, trái tim nồng nàn nhiệt huyết yêu nước của người lính. Điều này cho thấy sức mạnh và phẩm chất sáng ngời của người lính giải phóng quân. Hình tượng trái tim cao đẹp ấy cũng chính là lời khẳng định sâu sắc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí hay công cụ, mà là con người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và niềm tin vững chắc.
Câu thơ tỏa sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính. Tuyết tự do, nhẹ nhàng nhưng mang lại sự suy luận và triết lý sâu sắc.
3. Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính ý nghĩa nhất:
Trong chặng đường văn học giai đoạn 1945 – 1975, cùng với rất nhiều nhà thơ trẻ khác Phạm Tiến Duật cũng là một trong những ngòi bút có đóng góp tích cực vào vườn thơ ca kháng chiến. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ông đã phần nào khẳng định tài năng, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không kính cùng phong thái ung dung ngang tàng của những người chiến sĩ lái xe và khép lại bài thơ là ý chí bền bỉ chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:
“Không có kính rồi xe không có đèn
……………
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Dường như, hai câu thơ đầu khổ cuối đã tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh của những chiếc xe làm nhiệm vụ:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước”
Cùng với điệp ngữ “không có” cùng một loạt hình ảnh liệt kê “thùng xe, mui xe, đèn xe” giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái ác liệt nơi chiến trường. Giờ đây, xe không chỉ không có kính mà xe còn không có đèn rồi lại không có mui xe, thùng xe thì bị xước trở nên biến dạng. Đó là hình ảnh chân thực của những chiếc xe bon bon trên chiến trường Trường Sơn đang chạy ngày đêm không ngừng nghỉ. Đó là những chiến tích ác liệt của những trận mưa bom bão đạn và sự khắc nghiệt của thời tiết nơi đây.
Tuy nhiên, trái ngược với hình dạng thiết thốn, méo mó của những chiếc xe là tâm hồn phơi phới dậy tương lai của những người lính lái xe:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”
Tái hiện lại hình ảnh những chiếc xe tải vượt qua khó khăn để đưa hàng hóa và người lính tới miền Nam trong cuộc kháng chiến. Dù cho mọi thứ xung quanh đều khắc nghiệt và thiếu thốn, nhưng những chiếc xe vẫn tiếp tục lăn bánh, nhờ vào tình yêu quê hương và tinh thần quyết tâm của người lính. “Trái tim” là tâm điểm của bài thơ, biểu thị cho tình yêu nồng nàn của người lính đối với đất nước và tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm để vượt qua khó khăn. Dù cho xe tải bị thiếu kính, đèn, mui và thùng xe bị xước, nhưng những chiếc xe vẫn tiếp tục hành trình, nhờ vào sức mạnh của “trái tim” và niềm tin vững vàng của người lái xe. Bài thơ kết thúc bằng sự tôn vinh những anh hùng cầm lái xe, những người lính đang hy sinh để thực hiện nhiệm vụ giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Bài thơ cũng thể hiện rằng chỉ có tình yêu thương và sự hy sinh của con người mới có thể giúp đất nước đứng vững và phát triển.
Nếu như trong thơ của Chính Hữu, hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc bước vào mặt trận với muôn vàn những khó khăn:
“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
hay:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá”
Thì khi đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta lại bắt gặp hình ảnh của một thế hệ trẻ bước vào kháng chiến với niềm vui và tinh thần lạc quan, họ được giác ngộ về lí tưởng Cách mạng, họ là những người lính có học thức cao hơn, ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh của dân tộc. Trong câu thơ luôn phơi phới tinh thần trẻ trung, yêu đời, sôi động và vô cùng dí dỏm.